Ai Uống Nước Tôi Cho, Sẽ Không Bao Giờ Khát Nữa

Chúa Nhật III Mùa Chay – Năm A

Chủ đề của cuộc trao đổi trong câu chuyện hiển nhiên là về thứ ‘Nước hằng sống’, mà đức Giê-su sẽ ban cho tín hữu qua sứ mạng trần thế của Người; thế nhưng bản chất của thứ nước đó là gì thì lại không rõ ràng gì. Nước đó là gì mà “ai uống nước tôi cho, sẽ không bao giờ khát nữa”? Cụ thể hơn nữa, cơn khát mà nước đó vĩnh viễn giải được là cơn khát gì? Nắm được điều này là hiểu được chính sứ mạng đích thực của đức Giê-su. Để có câu trả lời, có lẽ tôi cần nhìn sâu hơn vào người phụ nữ Sa-ma-ri tới bên bờ giếng Gia-cóp, đối tượng trực tiếp của lời mời kín lấy ‘nước hằng sống’. Cụ thể, từ thâm sâu, chị ta đang khát điều gì nhất? Và lý do nào khiến chị ta tin chắc đức Giê-su là đấng Ki-tô?

Tôi tự hỏi: một người phụ nữ ‘đã năm đời chồng rồi, và người hiện

đang sống với chị không phải là chồng chị’ thì phải khao khát điều gì nhất? Một đời sống luân lý hoàn chỉnh chăng? Không dám đâu, vì chị ta làm gì đạt được, hơn nữa, xem ra đức Giê-su không đòi hỏi hoặc quở trách chị về điều đó, ngài cũng không có lấy một lời đòi chị phải rời bỏ ông chồng hờ. Ngoài tình dục là điều rất tự nhiên của đời sống vợ chồng, người phụ nữ này rất có thể còn đang khao khát một thứ tình yêu thông cảm, chấp nhận, mà chị chưa tìm được nơi bất kỳ ai, kể cả nơi năm ông chồng trước, hoặc người đàn ông hiện chị đang chung sống với. Điều chị khao khát nhất có thể là một lòng thương xót bao la, hay một sự thứ tha trọn vẹn? Qua cuộc đối thoại tiếp theo đó, hình như dung mạo Thiên Chúa mà chị đang âm thầm tìm kiếm và mong đợi cũng liên quan tới khát vọng này. Chị không phải là nhà thần học để tranh luận vấn đề phải thờ phượng Thiên Chúa nơi nào cho thích hợp nhất; nhưng chị đã thật sự vui mừng khi nghe công bố “giờ đã đến – và chính là lúc này đây – giờ những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Chúa Cha trong thần khí và sự thật”: một kiểu thờ phượng sẽ đáp ứng trọn vẹn niềm khát vọng bên trong. Về diện mạo đấng Mê-si-a phải đến cũng tương tự như thế. Khác với quan niệm một đấng Ki-tô thống trị và quyền lực mà giới lãnh đạo vẫn phác họa, chị chỉ mong vị đó “khi Người đến, Người sẽ loan báo cho chúng tôi mọi sự”, nhất là khi các điều đó đáp ứng được những khát vọng thâm sâu nhất của chúng tôi. Và một khi phát hiện ra con người mà lòng mình hằng mong đợi, “Đấng ấy chính là tôi, người đang nói với chị đây!”, người phụ nữ Samari đó “để lại vò nước, chạy vào thành và nói với người ta; “Đến mà xem; có một người đã nói với tôi tất cả những gì tôi đã làm. Ông ấy không phải là đấng Ki-tô sao?”.

Thế rồi dân thành Xy-kha, khi nghe người phụ nữ loan báo, đã đến gặp và mời đức Giê-su lưu lại với họ, ‘và Người ở lại với họ hai ngày’. Sau thời gian đó, chính họ đã khám phá bằng kinh nghiệm bản thân, rằng đức Giê-su là người ban ‘nước hằng sống’: “Không còn phải vì lời chị kể mà chúng tôi tin. Quả thật chính chúng tôi đã nghe và biết rằng Người thật là Đấng cứu độ trần gian”. Với những tâm hồn chất phác, mang trong mình những mảng đời riêng tư khác nhau… (mà người phụ nữ với 06 đời chồng chỉ là một trường hợp…) thì chắc chắn khát vọng sâu xa nhất của họ cũng không là gì khác hơn một sự cảm thông sâu xa và một lòng thương xót vô bờ. Họ đã khám phá ông Do Thái Giê-su Nadarét này chính là người đáp ứng được khát vọng mãnh liệt thầm kín nhất của mình, và họ sẵn sàng tin theo ông, cho dầu ông có là người xa lạ và cừu địch về mặt xã hội, chính trị. Họ đã khảng định niềm tin đó một cách thật rõ ràng và đơn sơ: “Người thật là Đấng cứu độ!”, một lời tuyên xưng biểu lộ thái độ hoàn toàn mãn nguyện khi tìm được nguồn nước mát của bao dung và thứ tha, sau một cơn khát khô họng kéo dài.

Nếu đúng là như thế thì nội dung ‘nước hằng sống’ đã trở nên cụ thể và riêng tư hơn. Mùa chay chính là thời gian để tôi xác định được cơn khát của riêng mình, đồng thời tuyên xưng cách xác tín hơn: Giê-su quả thật là đấng ban cho tôi ‘Nước hằng sống’; ngài quả là ‘Đấng cứu độ’ của tôi!

Lạy Chúa, con cũng có một mảng đời riêng tư với những khát vọng cháy bỏng. Vào lúc đời xế bóng này, khát vọng lớn nhất con có chính là được thứ tha và thương xót; vì cũng như mọi kiếp người, cuộc sống con cũng đầy dẫy những khiếm khuyết và tội lỗi. Như người nữ Sa-ma-ri, chỉ có nước hằng sống, là lòng từ ái hải hà Chúa, mới có thể hoàn toàn giải cơn khát họng của con, bây giời và cho đến muôn đời. Amen

Lm Gioan Nguyễn Văn Ty SDB