Đức Maria Lên Trời, Niềm Hy Vọng của Chúng Ta

Hôm nay, toàn thể Giáo hội long trọng mừng Lễ Đức Maria vinh hiển hồn xác về trời. Từ sau tín điều Đức Maria hồn xác lên trời được Đức giáo hoàng Piô XII định tín ngày 1.11.1950, niềm vui mừng và hy vọng hướng về tương lai, hướng về cuộc sống mai sau của tất cả chúng ta lại có thêm cơ sở để tin tưởng và phó thác trong tình yêu Thiên Chúa. Lời Chúa hôm nay giúp chúng ta khám phá vì sao Đức Maria lại được Thiên Chúa ưu tuyển và ban muôn đặc ân tuyệt vời như thế.

Bước chân vội vả lên đường của Đức Maria đến miền sơn cước Giêrusalem – có lẻ là miền Ain Carim hiện nay, cách Giêrusalem khoảng 6 km về phía tây- thăm người chị họ không chỉ nhằm loan báo mầu nhiệm Nhập thể của Con Thiên Chúa hay chỉ hát lên bài ca cảm tạ tri ân Thiên Chúa (bài ca Magnificat), nhưng đó còn là hình ảnh gợi nhớ điều mà Ngôn sứ Isaia loan báo ngày xưa về Đấng Thiên Sai sẽ đến. Thật vậy, trong bối cảnh thời đại Isaia, lúc Batư tiến đánh Babylon, Ngôn sứ Isaia cũng như nhiều người Dothái lưu đày khác đang ở Babylon. Chính trong hoàn cảnh ấy, ông ước mơ làm sao có thể chạy về Giêrusalem để báo tin rằng Thiên Chúa sắp giải phóng dân Người. Ong đã nhảy lên vui sướng và reo vang: “Đẹp thay trên đồi núi, bước chân người loan báo Tin mừng, công bố bình an, người loan tin hạnh phúc, công bố ơn cứu độ” (Is 52,7). Như thế, hình ảnh Đức Maria với sự hiện diện của Ngôi Hai Thiên Chúa mà Mẹ đang cưu mang, băng ngàn để loan báo tin vui cũng chính là hình ảnh mà khi xưa Isaia đã loan báo. Hơn thế nữa, đó còn là hình ảnh của Giáo hội “ra khơi” (Duc in altum) mang Chúa đến cho muôn dân.

Nhìn từ bên ngoài, chúng ta chỉ thấy được sự kiện hai bà mẹ gặp nhau, vui vẻ hàn huyên; thế nhưng, thực chất lại là sự gặp gỡ của hai hài nhi. Bằng chứng là với lời chào thăm của Đức Maria, hài nhi Gioan – mà đúng theo nguyên ngữ Hylạp- là đã “nhảy cẩng lên”, “nhảy tung lên” vui sướng. Như thế, hài nhi Gioan ngay từ khi còn trong lòng mẹ đã tiên báo về Đấng Cứu thế – Đấng mà mình sẽ là tiền hô sau này. Có điều chúng ta thấy, điều tiên báo đó không thực hiện bằng lời nói mà bằng ngôn ngữ của thân xác.

Bà Elisabét – qua Thánh Thần- đọc được ý nghĩa mà người con trong lòng bà “nhảy cẩng” lên cũng như ý nghĩa của cuộc gặp gở với Mẹ Thiên Chúa, bà đã thốt lên lời tụng ca ca ngợi Mẹ Maria như là người phụ nữ có phúc hơn hết mọi phụ nữ. Chúng ta thấy, lời tụng ca của bà Elisabét trước hết chịu ảnh hưởng của ca vịnh Debora trong Cựu ước. Đây là ca vịnh dùng để tụng ca bà Giaên, vợ ông Kheve người Kêni. Chúng ta biết, khi thủ lãnh Canaan là Xixơra chạy trốn vì thua trận, ông chạy vào lều bà Giaên. Bà đã dùng cọc để đóng vào tai Xixơra giết chết kẻ thù. Nhờ đó, bà được ca ngợi là người phụ nữ trổi vượt hơn muôn ngàn phụ nữ (x.Tl 5, 24).

Mười thế kỷ sau, dân Thiên Chúa cũng hát bài ca đó để ca ngợi bà Giuđitha. Đứng trước tình cảnh bi đát mà dân Thiên Chúa sắp phải chịu là trao tất cả dân chúng và thành thánh vào tay quân Atsua, bà Giuđitha – một phụ nữ đạo đức và kính sợ Thiên Chúa- đã sẵn sàng ra đi vào hang ổ của kẻ thù. Với nhan sắc tuyệt mỹ, bà đã lọt vào doanh trại của quân Atsua và sau đó được gặp tướng Atsua là Hôlôphécnê để rồi dùng mưu chặt đầu tướng giặc mang vinh quang cho dân Israel. Bởi đó, Giuđitha cũng được ngợi ca là người phụ nữ được Thiên Chúa chúc phúc hơn mọi người phụ nữ (x. Gđt 8-13).

Như thế, khi bà Elisabét ca ngợi Đức Maria là người “được chúc phúc hơn hết mọi người phụ nữ”, thánh Luca muốn ám chỉ việc Thiên Chúa thực hiện công trình cứu chuộc của Người nơi Mẹ. Nơi Mẹ, không chỉ thay thế bà Giaên, bà Giuđitha mà Mẹ còn vượt xa họ về mọi phương diện, đặc biệt là vì dòng dõi Mẹ sẽ là dòng dỏi “đạp nát đầu con rắn” vốn được xem là kẻ thù của dân Thiên Chúa (x. St 3,15).

Việc bà Elisabét được Thánh Thần soi sáng để nhận ra Đức Maria là “thân mẫu Thiên Chúa” không chỉ là nền tảng kinh thánh để đi đến tín điều Mẹ Thiên Chúa (Theolokos) vốn được công đồng Ephêxô tuyên tín vào ngày 22. 6. 431, mà theo Luca, đó còn là mối liên hệ giữa Đức Maria với Hòm bia Thiên Chúa. Thật vậy, nhìn vào trình thuật Truyền tin và Thăm viếng, chúng ta thấy có một sự tương đồng cách nào đó giữa Mẹ với Hòm bia Giao ước thời Vua Đavít. Nếu như trước kia, Hòm bia Giao ước luôn được đám mây che phủ thì nay Đức Maria được “Thánh Thần rợp bóng” khi cưu mang Con Thiên Chúa; ngày xưa Vua Đavít nhảy mừng khi gặp Hòm bia thì nay, chính Gioan cũng nhảy lên vui sướng khi gặp Mẹ viếng thăm; Hòm bia Giao ước được rước lên Giêsusalem để muôn dân chiêm ngưỡng và thờ lạy thì nay Đức Maria cũng băng rừng vượt suối để lên miền núi Giêrusalem để gia đình Dacaria tán tụng Thiên Chúa; và cuối cùng, ngày xưa, Hòm bia Giáo ước đã ở lại nhà của ông Ôvết Êđôm 3 tháng thì nay, Đức Maria cũng đã ở lại nhà ông Dacaria 3 tháng để phục vụ cho bà Elisabét (x. 2Sm 6, 9-11).

Đức Maria là niềm tin và là mẫu gương cho hết mọi người chúng ta. Hành trình đức tin của Mẹ cũng chính là hành trình đức tin của chúng ta. Chúng ta học hỏi nơi Mẹ để có thể trở nên người có niềm tin vững vàng. Qua Mẹ, chúng ta sẽ tìm gặp được Thiên Chúa, sẽ được thấy Chúa Giêsu – người con yêu dấu của Mẹ. Nói như thánh Grignon de Monfort: “Nếu chúng ta kêu đến danh thánh Maria, thì tiếng vọng trả lời chúng ta sẽ là Đức Giêsu”. Thánh Don Bosco còn mạnh bạo hơn khi quả quyết với con cái của người về niềm tin tưởng phó thác trong tình yêu của Mẹ: “Hãy đến với Đức Maria, các con sẽ thấy phép lạ là gì”.

Lm. Phạm ngọc Ngôn