Suy Niệm Chúa Nhật 30 Thường Niên – Năm A

Trọng tâm Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật hôm nay, chính là hiệp nhất hai giới luật: “Mến Chúa và Yêu Người”.

Xh 22: 20-26

Bài đọc I trích từ Bộ Luật Giao Ước của sách Xuất Hành, trong đó Thiên Chúa đòi hỏi dân Ngài phải thực thi lòng nhân ái đối với những người khốn khổ nhất: ngoại kiều, mẹ góa con côi, người túng thiếu. Ngài đồng hóa mình với họ.

1Th 1: 5-10

Thánh Phao-lô khích lệ các tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca và ca ngợi đức tin kiên vững của họ, dù họ đón nhận Tin Mừng chỉ mới đây và đã phải chịu trăm chiều thử thách.

Matthew 22:34-40  

Trong Tin Mừng, Đức Giê-su nối kết luật “mến Chúa” và luật “yêu người” thành một.

BÀI ĐỌC I (Xh 22: 21-27)

Bản văn nầy được trích dẫn từ “Bộ Luật Giao Ước” của sách Xuất Hành.

1. Bối cảnh:

Bộ luật nầy phản ảnh thời kỳ dân Do thái không còn sống cuộc sống du mục nữa, nhưng định canh định cư ở đất Ca-na-an. Vì thế, người ta có thể ấn định niên biểu của nó vào thời hậu Mô-sê, chính xác hơn vào những giai đoạn đầu tiên của thời kỳ định cư, trước khi tổ chức thành một quốc gia, tức vào thời Thủ Lãnh, khoảng năm 1200 và 1030 trước Công Nguyên. Đây là luật của một xã hội chăn nuôi
và nông nghiệp. Việc đặt Bộ luật này vào trong bối cảnh “Trên núi Si-nai, Chúa phán với dân Ít-ra-en” chỉ là hư cấu văn chương nhằm để nhấn mạnh rằng bộ luật nầy vẫn ở trong tinh thần của Luật Mô-sê và chỉ là khai triển Luật Mô-sê.

Trên bình diện hình thức, “Bộ Luật Giao Ước” nầy có nhiều quan hệ với các luật của miền Cận Đông như Bộ Luật Hammourabi vào năm 1700 trước Công Nguyên. Bộ Luật Ba-by-lon này cũng được diễn tả theo biểu thức điều kiện: “Nếu ngươi làm điều nầy, nếu người làm điều nọ”.

Một biểu thức khác, hiếm hơn trong những bản văn xưa nhưng thường gặp trong Cựu Ước, đó là biểu thức mệnh lệnh, thường nhất ở hình thức phủ định: lệnh cấm: “Ngươi không được…”, như trong Thập Giới (Xh 20: 3-17), trong đó đa số đều là lệnh cấm và chỉ có hai giới luật ở hình thức khẳng định: lệnh truyền: “Ngươi hãy…”. Trong đoạn trích hôm nay, lệnh cấm cũng chiếm ưu thế.

Xét về nội dung, Bộ Luật Giao Ước nêu bật tính độc đáo của nó khi so sánh với các bộ luật của các dân tộc khác trong vùng. Các bộ luật ngoại quốc được vua ban hành và được thần linh bảo lãnh, trong khi Bộ Luật Giao Ước được chính Thiên Chúa ban, vì thế, vi phạm luật đồng nghĩa với việc xúc phạm đến chính Thiên Chúa. Trong Bộ Luật Giao Ước này, lòng nhân ái được đề cao như luật cốt yếu của đời sống xã hội, vì thế, hai giới luật: mến Chúa và yêu người, tự chúng được liên kết cùng nhau rồi.

2. “Người ngoại kiều”.

Ở Ít-ra-en, có nhiều quy chế liên quan đến ngoại kiều. Trước hết, “ngoại kiều thường trú” được hưởng một quy chế khá thuận lợi (nhất là người làm thuê ở nhà chủ mình). Đoạn, “ngoại kiều vãng lai”
được hưởng truyền thống hiếu khách. Cuối cùng, “ngoại kiều nhập cư” phải chịu một quy chế khắc khe. Chính hoàn cảnh của “ngoại kiều nhập cư” nầy mà Bộ Luật Giao Ước quan tâm. Nguyên do được nêu lên là sự kiện lịch sử: “Vì chính các người đã là ngoại kiều ở Ai-cập”. Phải nhấn mạnh rằng các bộ luật của miền Cận Đông xưa không bao giờ nêu lên nguyên do của các luật được ban hành, vì thế, đây là nét độc đáo của bộ luật Kinh Thánh.

3. “Mẹ góa con côi”.

Thân phận của người phụ nữ ở Ít-ra-en thì giống như thân phận của người phụ nữ Việt Nam trước đây: “tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử”. Vì thế, người phụ nữ nào lâm vào cảnh “mẹ góa con côi” khó có thể tìm được nơi nương tựa. Nếu không có của cải, người phụ nữ nầy có thể gặp phải cảnh sống khốn khổ, nhất là phải gánh vác trách nhiệm nuôi nấng con cái. Những cảnh ngộ
thương tâm như thế rất thường gặp thấy trong những xã hội thời xưa. Thế nên, luật pháp quan tâm đến cảnh ngộ mẹ góa con côi như phần kết của Bộ Luật Hammourabi: “Ta đã viết những lời nầy trên bia đá ngỏ hầu kẻ mạnh không ức hiếp người yếu và trả lại sự công bình cho mẹ góa con côi”.

Như chúng ta đã nói trên, nét độc đáo của bộ luật Kinh Thánh chính là viện dẫn Thiên Chúa như Đấng bênh vực và bảo vệ tình cảnh mẹ góa con côi. Thiên Chúa sẽ đích thân can thiệp: “sẽ cho gươm giết các ngươi”, nghĩa là các ngươi sẽ bị chết trong chiến tranh. Một cách nào đó, đây là luật “ân oán phân minh” (“răng đền răng mắt đền mắt”), nghĩa là vợ con của họ cũng sẽ lâm vào cảnh mẹ góa con côi như vậy.

4. Cho vay trả lãi.

Dân Thiên Chúa là cốt nhục tình thâm, vì thế không được để cho bất cứ một ai trong anh em mình phải sống trong cảnh nghèo hèn túng thiếu. Phải cho anh em vay mượn nhưng không đòi trả lãi.

Tại các dân tộc lân cận, người ta cho vay để lấy lãi. Bộ Luật Giao Ước cấm không được cho vay lấy lãi như thế. Việc vay lấy lãi được trình bày như đối lập với luật yêu thương đồng bào của mình. Quả thật, sách Đệ Nhị Luật xác định: “Người nước ngoài, anh em được cho vay lấy lãi, còn người anh em của anh thì không được cho vay lấy lãi; như vậy, Đức Chúa, Thiên Chúa của anh sẽ chúc phúc cho anh trong mọi công việc tay anh làm, trên đất anh sắp vào chiếm hữu” (Đnl 23: 20-21). Đức Giê-su sẽ triển khai triệt để luật yêu người, không chỉ giới hạn vào đồng bào của mình mà còn trải rộng đến hết mọi người, và không chỉ “cho vay mà không lấy lãi” mà còn “cho vay mà chẳng hề hy vọng được đền trả”.

Để tránh người vay nợ lạm dụng, người cho vay có thể lấy áo choàng làm đồ thế chấp. Bản văn chúng ta đưa ra một ví dụ ý nhị. Người nghèo cần chiếc áo choàng làm chăn đắp vào ban đêm. Vì vậy, nếu giữ áo choàng làm đồ thế chấp, thì phải trả lại cho khổ chủ trước khi mặt trời lặn để người đó có cái mà đắp trong đêm lạnh lẽo: “Nó mà kêu cứu Ta, Ta sẽ nghe nó, vì Ta vốn nhân từ”. Lại một lần nữa, bản văn khẳng định rằng Thiên Chúa đặt mình liên lụy với người khốn khổ. Trong Tin Mừng hôm nay, Đức Giê-su khẳng định mến Chúa và yêu người là một.

BÀI ĐỌC II (1Th 1: 5-10)

Chúng ta tiếp tục đọc thư của thánh Phao-lô gởi các tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca.

1. Tấm gương của những người loan báo Tin Mừng.

Thánh nhân nói đến cách sống của mình và của những người đồng hành của mình là ông Si-va-nô và ông Ti-mô-thê mà không nêu ra bất kỳ chi tiết cụ thể nào: “Anh em biết khi ở với anh em chúng tôi đã sống thế nào để mưu ích cho anh em”. Sau nầy, thánh nhân sẽ đề cập vấn đề nầy một cách cụ thể và rõ ràng hơn như sự ân cần và lòng tốt ngài bày tỏ cho họ. Trong đoạn trích dẫn nầy, thánh nhân ca ngợi các tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca vì “noi gương các vị mục tử của họ và bắt chước Chúa”.

Chúng ta đừng quên rằng lúc nầy thánh Phao-lô đang ở Cô-rin-tô, cộng đoàn Kitô hữu mà ngài vừa mới thành lập. Sau nầy, ngài cũng sẽ đưa ra một lời khuyên như vậy cho các tín hữu Cô-rin-tô: “Anh em hãy bắt chước chúng tôi như tôi bắt chước Chúa Kitô” và cho cả các tín hữu Phi-líp-phê nữa: “Thưa anh em, xin hãy cùng nhau bắt chước tôi, và chăm chú nhìn vào những ai sống theo gương chúng tôi để lại cho anh em” (Pl 3: 17).

2. Tấm gương của các tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca.

Những người loan báo Tin Mừng, dù đã phải kinh qua biết bao gian truân, vẫn cảm thấy vui mừng vì được chứng kiến thành quả Tin Mừng ở nơi các tín hữu nhờ tác động của “Thánh Thần”. Quả thật, dù đón nhận Tin Mừng trong một thời gian ngắn và phải chịu trăm chiều thử thách, các Ki-tô hữu Thê-xa-lô-ni-ca đã là tấm gương sáng chói cho mọi người:“Từ nơi anh em, Lời Chúa được vang ra; không những ở Ma-kê-đô-ni-a và A-khai-a, mà đâu đâu người ta cũng nghe biết lòng tin anh em đặt vào Thiên Chúa”.

3. Dân ngoại đón nhận đức tin.

Thánh Phao-lô diễn tả niềm vui của ngài vì dân ngoại mở rộng lòng đón nhận đức tin: “Anh em đã từ bỏ ngẫu tượng mà quay về với Thiên Chúa như thế nào, để phụng sự Thiên Chúa hằng sống và chân thật”. Như các ngôn sứ thời xưa, thánh Phao-lô đối lập các ngẫu tượng, có mắt có tai mà không nghe không thấy, với Thiên Chúa hằng sống và chân thật. Thánh nhân ca ngợi họ đã hiểu ý nghĩa đời sống Kitô hữu, đó là phụng sự Thiên Chúa hằng sống và chân  thật và chờ đợi ngày Quang Lâm của Đức Giê-su, Người Con Một, được sống lại từ cõi chết, Đấng Cứu Độ chúng ta và giải thoát chúng ta khỏi cơn thịnh nộ đang đến. Nghĩa là sống trong niềm hy vọng. Ở đây, thánh nhân tóm gọn điều cốt yếu lời rao giảng của ngài. Lời rao giảng nầy theo cùng mẫu thức với lời rao giảng của Giáo Hội tiên khởi, như chúng ta gặp thấy trong sách Công vụ.

Như vậy, cộng đồng các tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca, tuy một tiểu số nhỏ bé, nhưng thực sự đã là chứng tá cho Đức Ki-tô giữa lòng lương dân.

TIN MỪNG (Matthew 22:34-40)

Câu chuyện nầy được cả ba Tin Mừng Nhất Lãm tường thuật. Tuy nhiên, chỉ một mình thánh Mát-thêu đặt câu chuyện nầy vào trong bối cảnh tranh luận của nhóm Biệt Phái với Chúa Giê-su nhằm hãm hại Ngài.

1. Vấn đề nhóm Biệt Phái nêu lên:

Theo Mát-thêu, sau khi nghe tin Đức Giê-su đã làm cho nhóm Xa-đốc phải câm miệng về vấn đề kẻ chết sống lại, nhóm Pha-ri-sêu lại xuất hiện và bày mưu tính kế hãm hại Ngài. Trước đây họ đã giăng bẫy Ngài về vấn đề chính trị: “Có được phép nộp thuế cho Xê-da không?”, bây giờ, về vấn đề tôn giáo: “Thưa Thầy, trong sách Luật Mô-sê, giới luật nào là giới luật quan trọng nhất?”. Quả thật,
sách Luật Mô-sê, tức bộ Ngũ Thư, chứa đựng vô số những lệnh truyền và lệnh cấm, tổng cộng đến 613 điều phải tuân giữ. Làm thế nào nhận ra trong muôn vàn giới luật nầy giới luật nào quan trọng nhất? Trong suốt lịch sử dài, từ thế hệ nầy đến thế hệ khác, các nhà thông luật tranh luận với nhau nhưng không đưa ra một giải pháp nào thỏa đáng cả. Vì thế, đây là một vấn đề có tính thời sự vào lúc đó, nhưng trong hoàn cảnh nầy, vấn đề được nêu ra là nhằm bắt bí Đức Giê-su, điều đó cho thấy ác tâm của nhóm Biệt Phái nầy.

2. Câu trả lời của Đức Giê-su.

Đức Giê-su không xuất thân từ trường lớp nào của các kinh sư. Ngài tự do với ngày sa-bát (huấn lệnh quan trọng, thậm chí rất quan trọng là đằng khác). Chính Ngài và các môn đệ Ngài không thực hành việc rửa tay trước bữa ăn (không tuân giữ tập tục tiền nhân để lại). Ngài giao du với những người mà nhóm Biệt Phái gọi là những người tội lỗi và tránh giao tiếp để giữ mình khỏi ô uế. Tuy nhiên, Ngài khẳng định rằng Ngài không đến để hủy bỏ Lề Luật và giáo huấn của các ngôn sứ, nhưng đề xuất những quan niệm riêng mình. Trước vấn đề mà nhóm Biệt Phái vừa mới nêu lên, Ngài sẽ trả lời như thế nào? Câu trả lời của Ngài rồi sẽ cung cấp cho những kẻ ác tâm nầy lý do để buộc tội Ngài chứ?

Trước hết, Chúa Giê-su trả lời bằng cách trích dẫn giới luật “Mến Chúa” trong sách Đệ Nhị Luật 6: 5. Giới luật nầy được xem như Kinh Tin Kính của Do Thái giáo. Kinh này được gọi “Kinh Shema”, đọc mỗi ngày hai lần. Kinh nầy là niềm tự hào của dân Ít-ra-en, qua đó họ khẳng định mình khác với các dân tộc khác; họ không chỉ thờ phượng Thiên Chúa duy nhất chân thật, nhưng còn yêu mến Ngài trọn cả cuộc sống của mình. Câu trả lời của Chúa Giê-su không chỉ chuẩn nhận luật mến Chúa như được gặp thấy trong Đnl 6: 5 và luật yêu người trong Leviticus 19:18, nhưng còn kiện toàn chúng nữa khi nối kết hai giới luật này làm một.

3. Câu trả lời thật hoàn toàn mới mẽ:

Câu trả lời của Chúa Giê-su đem đến những điều mới mẽ như sau:

1- Giới luật “yêu người” trong sách Lê-vi chỉ giới hạn vào đồng bào Do thái, trong khi Đức Giê-su mở rộng ra với hết mọi người. Trong cùng một câu chuyện (Lc 10: 25-28), thánh Lu-ca đã khai triển điểm nầy khi để cho một thầy thông luật nêu lên vấn đề: “Nhưng ai là người thân cận của tôi?” . Chúa Giê-su trả lời bằng dụ ngôn người Sa-ma-ri nhân lành, mà đối với dân Do thái, người Sa-ma-ri là kẻ thù
không đội trời chung.

2- Hai giới luật nầy được trích dẫn từ hai sách khác nhau. Người Do thái cũng đã nhận biết giới luật “yêu người” là quan trọng vì đây là luật Thiên Chúa ban, vì thế vi phạm đến giới luật nầy là xúc phạm đến chính Thiên Chúa. Nhưng trong cuộc sống thường ngày, người ta thường đặt giới luật mến Chúa lên hàng đầu, vì thế, người ta rất dễ nại đến luật “mến Chúa” mà hy sinh luật yêu người, như trong những cuộc tranh luận của nhóm Biệt Phái với Chúa Giê-su về ngày Sa-bát.

3- Nét độc đáo của câu trả lời của Chúa Giê-su không chỉ vì Ngài trích dẫn hai giới luật nầy và xem chúng như hai giới luật quan trọng bậc nhất, nhưng vì Ngài liên kết hai giới luật thành một.

4. Sự duy nhất của luật Mến Chúa và Yêu Người là nét đặc trưng của Ki-tô giáo:

Việc hiệp nhất hai giới luật mến Chúa và yêu người là nét đặc trưng của Kitô giáo, vì mỗi người đều được tạo dựng theo hình ảnh của Thiên Chúa (St 1: 26-27) mà Công Đồng Va-ti-can II gọi là “thiên chức toàn vẹn của con người” (G S, 11). Hơn nữa, Đức Giê-su đồng hóa mình với từng người, đặc biệt là những người nghèo khổ, những người thấp cổ bé miệng: “Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các
ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các gươi đã làm cho chính Ta vậy”
(Matthew 25:40,45). Như vậy, hai giới luật cùng nhau hình thành nên nền tảng căn bản của đời sống Kitô hữu. Giới luật “yêu người” gặp thấy điểm quy chiếu và chiều kích trọn vẹn của nó chỉ ở nơi giới luật “mến Chúa”.

Lm Inhaxiô Hồ Thông

Kinhthanhvn.org

Matthew 22:34-40
View in: NAB
34But the Pharisees hearing that he had silenced the Sadducees, came together:
35And one of them, a doctor of the law, asking him, tempting him:
36Master, which is the greatest commandment in the law?
37Jesus said to him: Thou shalt love the Lord thy God with thy whole heart, and with thy whole soul, and with thy whole mind.
38This is the greatest and the first commandment.
39And the second is like to this: Thou shalt love thy neighbor as thyself.
40On these two commandments dependeth the whole law and the prophets.
Matthew 22:34-40
View in: NAB
34But the Pharisees hearing that he had silenced the Sadducees, came together:
35And one of them, a doctor of the law, asking him, tempting him:
36Master, which is the greatest commandment in the law?
37Jesus said to him: Thou shalt love the Lord thy God with thy whole heart, and with thy whole soul, and with thy whole mind.
38This is the greatest and the first commandment.
39And the second is like to this: Thou shalt love thy neighbor as thyself.
40On these two commandments dependeth the whole law and the prophets.
Leviticus 19:18
View in: NAB
18Seek not revenge, nor be mindful of the injury of thy citizens. Thou shalt love thy friend as thyself. I am the Lord.
Matthew 25:40,45
View in: NAB
40And the king answering, shall say to them: Amen I say to you, as long as you did it to one of these my least brethren, you did it to me.
45Then he shall answer them, saying: Amen I say to you, as long as you did it not to one of these least, neither did you do it to me.