Suy Niệm Chúa Nhật Phục Sinh

Vào ngày lễ Phục Sinh nầy, phụng vụ Lời Chúa đặt trọng tâm vào biến cố Phục Sinh của Đức Ki-tô, vì thế bỏ qua bài đọc Cựu Ước quen thuộc để nhường chỗ cho Tân Ước. Sau khi Đức Giê-su đã hoàn tất Kinh Thánh, Giáo Hội không còn lý do gì quan tâm đến các bản văn tiên báo nữa. Khởi đi từ lễ Phục Sinh đến lễ Ngũ Tuần, Bài Đọc I được trích từ sách Công Vụ Tông Đồ như truyền thống xa xưa lên đến thể kỷ thứ tư.

Cv 10: 34, 37-43

Bài Đọc I nhắc nhở cho chúng ta rằng niềm tin của chúng ta vào Đức Kitô Phục Sinh dựa trên lời chứng của các Tông Đồ. Chính lời chứng của thánh Phê-rô, vị lãnh tụ Giáo Hội, được nhấn mạnh trong đoạn văn sách Công Vụ mà chúng ta đọc hôm nay.

Colossians 3:1-4

Bài Đọc II, trích từ thư thánh Phao-lô gởi cho các tín hữu Cô-lô-sê, mời gọi chúng ta suy niệm mầu nhiệm vượt qua, bằng cách mở ra cho chúng ta những chiều kích thần học về biến cố Phục Sinh.

Ga 20: 1-9

Cuối cùng, Tin Mừng Gioan thường thuật cho chúng ta một câu chuyện sống động nhất và chính xác nhất về cuộc khám phá ngôi mộ trống, bước khởi đầu niềm tin của các Tông Đồ vào biến cố Phục Sinh.                                

BÀI ĐỌC I (Cv 10: 34, 37-43)

Sách Công vụ được trình bày như phần tiếp theo Tin Mừng thứ ba: cùng một tác giả: thánh Lu-ca, cùng một người nhận: một Thê-ô-phi-lô nào đó, nhân vật vô danh.

1. Mối bận tâm của thánh Lu-ca:

Thánh Lu-ca bận tâm đến tính lịch sử: nghiên cứu cho đến ngọn nguồn những gì mình viết ra. Trong Tin Mừng của mình, thánh ký quan tâm đến cuộc đời thơ ấu của Đức Giê-su. Trong sách Công Vụ của mình, tác giả phác họa lại những bước khởi đầu của Giáo Hội. Trong phần thứ nhất của sách Công vụ, thánh Lu-ca nêu bật nhân cách của thánh Phê-rô, trong phần thứ hai, dung mạo của thánh Phao-lô.

2. Cuộc thăm viếng mục vụ của thánh Phê-rô:

Nhiều lần thánh ký nhấn mạnh các tông đồ làm chứng về biến cố Phục Sinh. Lời chứng của thánh Phê-rô tại tư gia của ông Co-nê-li-ô, viên bách quản Rô-ma, cung cấp một trong những vị ví dụ như vậy. Đó là lý do chọn bài đọc nầy vào Chúa Nhật Phục Sinh.

Vị lãnh tụ Giáo Hội đang thực hiện một cuộc “thăm viếng mục vụ.” Sau cuộc bách hại đã giáng xuống trên cộng đoàn Kitô hữu non trẻ vào năm 36 (vào thời gian đó, thánh Tê-pha-nô tử vì đạo), thời kỳ yên tĩnh trở lại. Thánh Phê-rô lợi dụng cơ hội nầy để thăm viếng những Giáo Đoàn vừa mới được thiết lập. Sách Công vụ nói với chúng ta: “Bấy giờ ông Phê-rô rảo khắp nơi” (Cv 9: 32). Chính như vậy mà vị Tông Đồ đến miền duyên hãi, miền mà trước đây thầy phó tế Phi-lip-phê đã đem Tin Mừng đến.

3. Cuộc trở lại của viên bách quản ngoại giáo:

Trong khi thánh Phê-rô có mặt ở Gia-phô, hiện nay là Jaffa, một viên bách quản Rô-ma, đồn trú ở Xê-da-rê Duyên Hải (cách Gia-phô khoảng 50 cây số), sai người mời thánh nhân đến tư gia của ông.

Viên bách quản Co-nê-li-ô là một cảm tình viên Do thái giáo, thuộc những người được gọi là “những kẻ kính sợ Chúa”, họ là lương dân, nhưng tôn kính Thiên Chúa Ít-ra-en, tuy nhiên, họ không tuân giữ luật Mô-sê và không chịu phép cắt bì. Ông là một người đạo hạnh và rộng tay bố thí như sách Công vụ nói với chúng ta.

Thánh Phê-rô đến tại nhà ông. Đây là lần đầu tiên thánh nhân đem sứ điệp tin mừng đến cho một lương dân và toàn thể thân bằng quyến thuộc của ông, một kinh nghiệm làm đảo lộn quan niệm trước đây của thánh nhân: “Quả thật, tôi biết rõ Thiên Chúa không thiện vị người nào. Nhưng hễ ai kính sợ Thiên Chúa và ăn ngay ở lành, thì dù thuộc bất cứ dân tộc nào, cũng đều được Người tiếp nhận”.

4. Diễn từ của thánh Phê-rô:

Bài diễn từ của thánh Phê-rô là một bản tóm tắt Tin Mừng, nhưng không có cùng những điểm nhấn với những bài diễn văn mà thánh nhân đã công bố ở Giê-ru-sa-lem, vào lúc đó thánh nhân minh chứng cho những người Do thái rằng Đức Giê-su đã thực hiện những lời hứa Kinh Thánh và Ngài là Đấng Mê-si-a. Ở Xê-da-rê, vào lúc này, ngỏ lời với cử tọa lương dân, thánh Phê-rô nhấn mạnh đến phẩm chất nhân chứng của mình: thánh nhân và các Tông Đồ khác đã chứng kiến những việc làm của Đức Giê-su Na-da-rét, cuộc Thương Khó và Tử Nạn của Ngài, nhất là, biến cố Phục Sinh của Ngài. Thánh Phê-rô là một trong những chứng nhân Thiên Chúa đã chọn từ trước để sống trong mối thân tình với Đức Kitô: “cùng ăn cùng uống với Ngài.” Đấng Phục Sinh đã trao cho họ một sứ mạng, đó là làm chứng rằng Thiên Chúa đã tôn phong Ngài làm Thẩm Phán để xét xử kẻ sống và kẻ chết. Hướng đến những người sắp gia nhập Giáo Hội và lãnh nhận bí tích Thánh Tẩy, thánh Phê-rô tinh tế thêm vào ngay sau đó rằng vị Thẩm Phán nầy cũng là Đấng từ bi, nhân hậu và hay tha thứ. Thánh nhân trích dẫn Kinh Thánh để nhấn mạnh rằng các ngôn sứ đều đã loan báo như vậy: tha thứ tội lỗi cho những ai tin vào Ngài.

Giáo Hội xây dựng niềm tin của mình vào biến cố Phục Sinh trên lời chứng của các Tông Đồ. Giáo Hội xem lời chứng nầy có tính quyết định đến độ không giờ cảm thấy cần phải đặt biến cố Phục Sinh thành một tín điều. Tính minh nhiên của sự kiện đòi buộc. Nền tảng thật vững chắc: những người “đã thấy”“đã sống” với Đức Kitô Phục Sinh làm chứng.

BÀI ĐỌC II (Colossians 3:1-4)

Thánh Phao-lô viết thư gởi cho các tín hữu Cô-lô-sê này trong khi bị giam cầm ở Rô-ma vào những năm 61-62. Trong đoạn trích thư này, thánh nhân đưa ra cho chúng ta chiều kích thần học về sự Phục Sinh một cách sâu xa.

1. Lập luận của thánh Phao-lô:

Thánh Phao-lô là nhân chứng của Đức Kitô Phục Sinh. Đấng Phục Sinh đã nắm bắt thánh nhân trên đường Đa-mát, đã tỏ mình ra cho thánh nhân trong ánh sáng chói lòa, đã cho thánh nhân những lời dạy của Ngài và trao phó sứ mạng cho thánh nhân.

Lập luận của thánh Phao-lô xem ra có vẻ mâu thuẫn: trước hết, thánh nhân nói: “Anh em đã được phục sinh cùng với Đức Kitô,” đoạn tiếp đó: “Anh em đã chết cùng với Đức Kitô” (tức là chết cho tội lỗi). Thật ra, đây là một trong những phương thức của thánh Phao-lô: trước tiên thánh nhân đề cao thực tại tinh thần; từ đó, cho thấy những hậu quả “luân lý” đòi buộc cách ăn nếp ở của chúng ta; tiếp đến, những hậu quả “hữu thể”, tức là những hậu quả ghi dấu ấn trên bản thân của chúng ta.

2. Người Ki-tô hữu:

Như trường hợp ở đây. Thánh Phao-lô định nghĩa người Kitô hữu là người, nhờ bí tích Thánh Tẩy và cuộc sống bí tích, dự phần vào sự Phục Sinh của Đức Kitô, vì thế, họ được sống lại rồi. Trong thư gởi cho các tín hữu Ê-phê-sô, thánh nhân diễn tả thực tại nầy còn bạo dạn hơn nữa, khi thánh nhân dùng thì quá khứ: “Người đã cho chúng ta được cùng sống lại và cùng ngự trị với Đức Kitô Giê-su trên cõi trời.” (Ephesians 2:6).

Vì thế, từ hoàn cảnh tinh thần này của người Kitô hữu, thánh Phao-lô nhấn mạnh trước tiên những hậu quả luân lý: cần thiết phải nghĩ đến những gì thuộc thiên giới. Tiếp đó, thánh nhân nói đến những hậu quả hữu thể: được sống lại rồi, tức là đã chết cho tội lỗi; đó là được biến đổi tận bên trong. Bên ngoài không có gì thay đổi, nhưng một năng lực thần linh ẩn kín ở bên trong người Kitô hữu, mà ánh sáng rực rỡ của nó sẽ chỉ được tỏ rạng một cách viên mãn vào ngày chung cuộc. Ý tưởng rất thân thiết đối với thánh Phao-lô: sống theo Đức Kitô đảm bảo vinh quang tương lai của chúng ta; chúng ta chắc chắn có được những bảo chứng về vinh quang của chúng ta rồi.

TIN MỪNG (Ga 20: 1-9)

Niềm xác tín của các Tông Đồ vào sự Phục Sinh của Đức Kitô dựa trên hai kinh nghiệm; có thể nói là chúng hình thành nên “hai giai đoạn”.

Trước tiên, việc khám phá ngôi mộ trống là mặc khải gây choáng váng đầu tiên, phải nói là kinh nghiệm về sự “trống rỗng” ; kinh nghiệm này đã mở đôi mắt của họ và khai lòng mở trí họ để hiểu Kinh Thánh.

Tiếp đó, ngay từ cùng ngày hôm đó, “những lần hiện ra” của Đức Giê-su mang đến bằng chứng khả giác về một con người thực sự đang sống, tuy nhiên, các môn đệ không thể nào thấu hiểu mầu nhiệm tôn vinh của Ngài. Nhưng thân xác của Đấng Phục Sinh rõ ràng là thân xác đã biến mất khỏi ngôi mộ, thân xác mang lấy những dấu đinh cuộc tử nạn của Ngài. Vì thế, không cốt là một bóng ma, không là một hình hài giả tạo. Hai kinh nghiệm tăng cường cho nhau, bổ túc cho nhau. Các Tông Đồ làm chứng về niềm xác tín tuyệt đối của mình cho đến phải hy sinh tính mạng của mình.

1. Ngày thứ nhất trong tuần:  

Từ cuộc khám phá ngôi mộ trống, Tin Mừng thứ tư tường thuật cho chúng ta một câu chuyện sống động, chính xác, câu chuyện của nhân chứng nhãn tiền. Và như luôn luôn trong Tin Mừng Gioan, những chi tiết mặc khải những ý nghĩa thâm sâu.

Ngày sa-bát đã chấm dứt vào buổi chiều hôm qua, vì thế, ngày thứ nhất trong tuần đã bắt đầu, ngày thứ nhất nầy sẽ trở thành ngày Chúa Nhật của chúng ta, “Ngày của Chúa,” nói chính xác vì đó là ngày Chúa Phục Sinh. Thánh Gioan nói: “Sáng sớm, lúc trời còn tối, bà Ma-ri-a Mác-đa-la đi đến mộ”. Bà Ma-ri-a Mác-đa-la là một trong các người phụ nữ đã lấy của cải của mình mà giúp Đức Giê-su và các môn đệ Ngài trong những cuộc hành trình của Ngài (Lc 8: 1-3); cùng với Đức Trinh Nữ, bà can đảm đứng bên thập giá vào những giây phút sau cùng của Đức Giê-su (Ga 19: 25), và bà đã đế ý nhìn ngôi mộ và xem xác Ngài được đặt như thế nào (Lc 23: 55). Bây giờ, sau ngày hưu lễ, bà đi viếng mộ. Tin Mừng chỉ cho thấy rằng bà ra đi đến mộ sáng sớm “lúc trời còn tối”: tình yêu và  niềm tôn kính của bà khiến bà ra đi không trì hoãn để được ở bên cạnh thi thể của Chúa chúng ta.

2. Bà Ma-ri-a Mác-đa-la:

Thánh Gioan chỉ nêu tên một mình bà Ma-ri-a Mác-đa-la, tuy nhiên, tự văn bản, xem ra còn có các bà khác cùng đồng hành với người phụ nữ nầy, vì bà Ma-ri-a Mác-đa-la nói : “Chúng tôi chẳng biết họ để Người ở đâu” . Quả thật, thánh Mát-thêu kể ra hai người : bà Ma-ri-a Mác-đa-la và một bà khác cùng tên là Ma-ri-a (Mt 28 : 1), còn thánh Mác-cô kể ra ba : bà Ma-ri-a Mác-đa-la, bà Ma-ri-a, mẹ của ông Gia-cô-bê, và bà Sa-lô-mê (Mc 16 : 1), theo thánh Lu-ca, còn có nhiều hơn nữa (Lc 24 : 1) ; nhưng bà Ma-ri-a Mác-đa-la luôn luôn được trưng dẫn.

Tại sao bà Ma-ri-a Mác-đa-la được nêu tên duy nhất? Chắc chắn vì trong số các bà trung thành nầy, kỷ niệm của người phụ nữ nầy đặc biệt nhất (thánh Gioan viết Tin Mừng của mình với một hoài niệm nào đó) ; và vì chính bà là người được ân ban đón nhận lần hiện ra đầu tiên trong số các lần hiện ra của Đấng Phục Sinh mà các sách Tin Mừng kể ra.

3. Thánh Phê-rô và thánh Gioan :

Khi bà Ma-ri-a Mác-đa-la báo tin cho hai ông Phê-rô và Gioan, hai ông có thể cư ngụ dưới cùng một mái nhà. Cả hai ông thường được nêu tên cùng nhau và hoạt động cùng nhau (Cv 3 : 1-11 ; 4 : 1-22). Họ đã là hai nhân chứng về cuộc Biến Hình, chắc chắn kinh nghiệm nầy giúp họ hiểu biến cố mà họ trải qua vào sáng nay.

Thánh Phê-rô thì lớn tuổi hơn, vì thế ông không thể chạy theo kịp thánh Gioan. Thánh Gioan đến mộ trước nhưng chỉ đứng ngoài mà liếc nhìn vào bên trong ngôi mộ. Để tỏ lòng kính trọng người lớn tuổi, thánh Gioan đứng đợi và nhường cho thánh Phê-rô vào mộ đầu tiên ; thánh nhân nhận ra ở nơi thánh Phê-rô địa vị cao hơn. Quyền lãnh đạo của thánh Phê-rô đối với các Tông Đồ sẽ được khẳng định chỉ sau khi gặp gỡ Đấng Phục Sinh bên bờ hồ Ti-bê-ri-a (Phê-rô, con có yêu mến Thầy ?), nhưng được hàm chứa rồi ở nơi việc đổi tên mà Đức Giê-su đã ban cho thánh Phê-rô: « Trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Giáo Hội của Thầy… ».

Tin Mừng thứ tư làm rõ ra rằng dù các người phụ nữ, đặc biệt bà Ma-ri-a Mác-đa-la, đến mộ trước tiên, các Tông Đồ là những người đầu tiên đi vào trong ngôi mộ và chứng kiến ngôi mộ trống, bằng chứng đầu tiên về việc Đức Giê-su phục sinh. Điều này rất quan trọng, vì theo luật Do thái, một sự kiện chỉ được chứng thực nếu có tối thiểu hai nhân chứng. Một ngày kia, Đức Giê-su đã nhắc lại luật này cho những người Pha-ri-sêu : « Trong Lề Luật của các ông, có chép rằng lời chứng của hai người là chứng thật » (Ga 8 : 17). Ngoài ra, theo Luật, lời chứng của các người phụ nữ thì không có giá trị.

4. Khăn và vải liệm được xếp đặt ngăn nắp :

Không chỉ chứng kiến ngôi mộ trống, cảnh tượng băng vải còn ở đó và khăn che đầu được cuốn lại, xếp riêng ra một nơi càng đánh động sâu xa hai vị Tông Đồ. Nếu thi thể bị đánh cắp, băng vải liệm có lẽ đã bị vất bừa bãi hổn độn rồi. Thế mà, mọi sự vật đều được xếp gọn gàng ngăn nắp.

Mặt khác, làm thế nào không nghĩ đến ông La-za-rô, thi thể được sống lại ra khỏi mồ, chân tay còn quấn vải và mặt còn phủ khăn ? Ông La-za-rô được sống lại để rồi một ngày kia lại chết. Đức Giê-su thì tự do, thoát khỏi mọi ràng buộc của cái chết nầy, nghĩa là tử thần không còn có quyền gì trên Ngài nữa. Chắc chắn hai vị tông đồ đã hiểu dấu chỉ nầy và bị chấn động đến mức mà thánh Gioan « đã thấy và đã tin » : rõ ràng dụng ngữ này diễn đạt quá trình từ « thấy » đến sự gắn bó trọn vẹn với Đấng Phục Sinh.

Ánh sáng bừng lên ở nơi người môn đệ nầy trước ngôi mộ trống và vải liệm được xếp gọn gàng ngăn nắp. Nếu niềm tin của ông đã có thể bị lung lay ít nhiều bởi những biến cố đau thương, thì tình yêu của ông đã không hề suy giảm, như ông đã bày tỏ cho đến mức theo bước chân Thầy cho đến nhũng giây phút cuối cùng của Thầy bên cạnh thập giá. Cường độ của tình yêu dẫn ông đến niềm tin ngay tức khắc. Chính cũng độ nhạy bén của tình yêu này mà vài ngày sau đó ông có thể nhận ra Thầy mình trên bờ hồ trong sương sớm trong khi những người khác không nhận ra (Ga 21 : 4, 7). Người môn đệ được yêu và đang yêu này chỉ thấy cái tối thiểu, tuy nhiên ông tin tối đa. Độ nhạy bén của con tim giúp ông hiểu biết con người và sự vật.

5. Theo Kinh Thánh :

Nếu đức tin có thể trước hết đến từ độ nhạy bén của con tim : « quen hơi bén tiếng », tuy nhiên nó cần được tâm trí soi sáng. « Thật vậy, trước đó, hai ông chưa hiểu hiểu rằng : theo Kinh Thánh, Đức Ki-tô phải chỗi dậy từ cõi chết » ám chỉ đến tiến trình các môn đệ hậu phục sinh giải thích sự Phục Sinh của Đức Ki-tô nhờ ánh sáng Cựu Ước (Ga 2 : 17, 22 ; 12 : 16) ; hơn nữa, Chúa Thánh Thần, Đấng soi sáng tâm trí của họ để hiểu nội dung Kinh Thánh, chưa được ban cho (Ga 14 : 26 ; Lc 24 : 45).
Các bản văn Kinh Thánh lại hiện ra trong tâm trí các ông…Người ta có thể phỏng đoán rằng họ nghĩ đến Tv 16, vì, vài tuần sau đó, chính Thánh Vịnh nầy mà thánh Phê-rô sẽ trích dẫn cho đám đông ở Giê-ru-sa-lem để đưa ra những khẳng định của mình liên quan đến biến cố Phục Sinh (Cv 2 : 24-31).
Quả thật, chúng ta đọc trong Tv 16 những hàng nầy : “Thân xác con cũng nghĩ ngơi an toàn. Vì Chúa chẳng đành để mặc con trong cõi âm ty, không để kẻ hiếu trung nầy hư nát trong phần mộ”. Ấy vậy, truyền thống đã áp dụng  Thánh Vịnh này vào Đấng Mê-si-a.

Như vậy, các ông rời bỏ ngôi mộ với hai niềm xác tín: trước hết, chứng thực những điều mà hai ông đã chứng kiến; sau nữa, khẳng định những lời Kinh Thánh loan báo về Thầy mình.

Lm Inhaxiô Hồ Thông

Colossians 3:1-4
View in: NAB
1Therefore, if you be risen with Christ, seek the things that are above; where Christ is sitting at the right hand of God:
2Mind the things that are above, not the things that are upon the earth.
3For you are dead; and your life is hid with Christ in God.
4When Christ shall appear, who is your life, then you also shall appear with him in glory.
Colossians 3:1-4
View in: NAB
1Therefore, if you be risen with Christ, seek the things that are above; where Christ is sitting at the right hand of God:
2Mind the things that are above, not the things that are upon the earth.
3For you are dead; and your life is hid with Christ in God.
4When Christ shall appear, who is your life, then you also shall appear with him in glory.
Ephesians 2:6
View in: NAB
6And hath raised us up together, and hath made us sit together in the heavenly places, through Christ Jesus.