Suy Niệm Chúa Nhật I Mùa Chay – Năm A

Hng năm, vào Chúa Nht I Mùa Chay, Tin Mng tường thut cho chúng ta câu chuyn Đc Giê-su chu th thách trong hoang đa. Vì thế, vào năm A này, phng v mi gi chúng ta lng nghe và suy gm bài tường thut Đc Giê-su chu th thách trong hoang đa theo Tin Mng Mát-thêu.

St 2: 7-9; 3: 1-7

Chính trong năm A ny mà Bài Đc I có mi tương quan trc tiếp nht vi bn văn Tin Mng. Đon trích t sách Sáng Thế mô t, theo hình thc gi hình, s th thách ca người ph n đu tiên. Được đt trước mt s chn la: hoc nương ta vào Đng To Hóa, hay t mình quyết đnh theo s t do ca riêng mình, người ph n này sa ngã trước s th thách và kéo theo nhân loi.

Romans 5:12-19

Trong Thư gi cho Giáo Đoàn Rô-ma, thánh Phao-lô gi lên nhân loi t nguyên thy mang ly du n ca ti li, nhưng nh Đc Giê-su, ct đt vi A-đam và được tái sinh trongmuôn vàn ân sng.

Matthew 4:1-11

Tin Mng Mát-thêu tường thut vic Đc Giê-su chu th thách trong hoang đa. Xa-tan đ ngh cho Ngài nhng con đường cu thế khác vi con đường thp giá mà Chúa Cha đã chn.

BÀI ĐC I (St 2: 7-9; 3: 1-7)

Sách “Sáng Thế là cuốn sách đầu tiên của bộ Kinh Thánh Cựu Ước. Chính nhan đề của sách nói lên đề tài của sách: trước hết, nguồn gốc của vũ trụ và nhân loại; đoạn, nguồn gốc của dân Do thái và lịch sử các Tổ phụ.

1. Hai chuyn tích v Cuc Sáng To:

Sách Sáng Thế bắt đầu với hai chuyện tích về Cuộc Sáng Tạo. Chuyện tích thứ nhất (St 1: 1-2: 4a) được biên soạn bởi truyền thống Tư Tế (P) vào thế kỷ IV trước Công Nguyên. Tiếp liền ngay sau đó, là chuyện tích thứ hai, cổ xưa hơn (St 2: 4b-25), được biên soạn bởi truyền thống Gia-vít (J) vào thế kỷ X trước Công Nguyên.

– Chuyện tích thứ nhất thuật lại cuộc sáng tạo trong sáu ngày theo cái khung của một tuần lễ Do thái mà đỉnh cao là ngày thứ bảy, ngày sa-bát. Chuyện tích này hình thành nên một đơn vị nhờ kỷ thuật đóng khung, bắt đầu với “Lúc khi đu Thiên Chúa sáng to nên tri đt (St 1: 1) và kết thúc với: “Đó là ngun gc tri đt khi được sáng to.” (St 2: 4a). Bằng văn thể trang trọng có nhịp điệu của một bài thánh thi phụng vụ, tác giả truyền thống Tư Tế cho chúng ta biết làm thế nào Thiên Chúa đã dựng nên muôn loài muôn vật một cách tốt đẹp trong đó con người là tuyệt hảo nhất (St 1: 31). Con người được tạo dựng tuyệt hảo nhất, vì Thiên Chúa đã tạo dựng nên con người sau cùng như tuyệt đỉnh của công trình sáng tạo của Ngài. Thêm nữa, trước khi sáng tạo con người, Thiên Chúa thảo luận; nhất là, Ngài đã tạo dựng con người “theo hình nh và ha nh ca Ngài”.

– Chuyện tích thứ hai bắt đầu với “Ngày Đc Chúa làm ra đt và tri. Như vây, diễn ngữ “tri đt” trong câu dẫn nhập của chuyện tích thứ nhất có nghĩa toàn thể vũ trụ, trong khi diễn ngữ “đt và tri” trong câu dẫn nhập của chuyện tích thứ hai muốn nói lên công trình sáng tạo của Thiên Chúa khởi sự nơi mặt đất, ở đó con người là trung tâm: trước khi Thiên Chúa sáng tạo con người, đất vẫn còn hoang vu không có sự sống, chưa có gì mọc lên. Bằng ngôn ngữ hình tượng và cách miêu tả Thiên Chúa như nhân, tác giả Gia-vít tường thuật cuộc sáng tạo con người: thay vì nói: con người gồm có thân xác (một ngày kia sẽ bị mục nát) và linh hồn (thần thiêng, và vì thế bất tử), tác giả miêu tả Thiên Chúa như một người thợ gốm nhào đất sét mà nặn nên hình người, đoạn thổi sinh khí vào lỗ mũi để con người trở nên một sinh linh. Sau đó, Ngài đặt con người vào trong vườn địa đàng và ban cho con người mọi thứ cần thiết để được sống hạnh phúc trong đó.

2. Nhng nét đc trưng ca chuyn tích th hai:

Trong chuyện tích thứ hai này, chuyện kể về “cuc sáng to con người” được tiếp tục bởi chuyện kể về “Th Thách và Sa Ngã” (St 3: 1-7), vì thế, chuyện kể thứ nhất kết thúc với: “C hai trn trung mà không xu h (St 2:25) và chuyện kể thứ hai kết thúc với: “H thy mình trn trung” (St 3: 7) như hậu quả của việc sa ngã. Cũng bằng ngôn ngữ hình tượng, tác giả miêu tả sự sa ngã của con người, bi kịch hóa cuộc xung đột nội tâm của con người: con rắn (quỷ dữ) nói chuyện với con người.

Tuy nhiên, tác giả không dừng lại ở nơi việc con người đầu tiên sa ngã như một tương lai vô vọng không lối thoát, nhưng tiếp tục với chuyện kể về án phạt và lời hứa cứu độ (St 3: 8-24). Như vậy, qua ba chuyện kể liên tục nầy, tác giả muốn giới thiệu lịch sử cứu độ và đưa ra lý do đầu tiên: tội của con người và niềm hy vọng tương lai được thoáng thấy ở nơi lời hứa cứu độ: “Ta s gây mi thù gia mi và người đàn bà, gia dòng ging mi và dòng ging người y; dòng ging đó s đánh vào đu mi, và mi s cn vào gót nó” (St 3: 15).

Cả ba chuyện kể này bày tỏ những nét đặc trưng của truyền thống Gia-vít. Ngay từ đầu Thiên Chúa được gọi là Đức Chúa (“Gia-vê”) chứ không phải chờ đợi mãi cho đến lúc Thiên Chúa mặc khải danh nầy cho ông Mô-sê (Xh 3: 13-15). Ngoài ra, tác giả sử dụng văn phong bút trực tiếp và cụ thể: ông không ngại trình bày Thiên Chúa theo lối như nhân, nghĩa là Thiên Chúa hành xử như một con người. Và ông cũng không ngại dùng ngôn ngữ thần thoại. Chữ thần thoại được hiểu ở đây theo nghĩa đầu tiên của nó, tức là chuyện kể liên quan đến đấng siêu việt. Thần thoại tìm cách tiếp cận mầu nhiệm nhờ vận dụng hình ảnh và biểu tượng. Trong chức năng nguyên khởi của nó, thần thoại đã chuyển tải những suy tư nghiêm trọng nhất về nhân loại: “Đi vi chuyn tích th hai v Cuc Sáng To, cách thc din đt phù hp vi cách suy nghĩ ca thi đi…Người ta có th nói…rng ct là ngôn ng thn thoi. Qu tht, trong trường hp ny, thut ng thn thoi không ch ra mt ni dung huyn thoi, nhưng mt cách thc c xưa đ din t mt ni dung sâu xa hơn…Ni dung ny đáng khâm phc nơi nhng điu liên quan đến nhng phm cht và đ đm đc ca các chân lý mà nó cha đng” (Jean Paul II, Audience generale du mercredi 7 novembre 1979).

Văn sĩ thánh đã khai thác rất nhiều ở nơi kho tàng thần thoại nầy; nhưng ông sử dụng những chất liệu nầy một cách hoàn toàn tự do, đặt chúng vào trong bối cảnh mới và ban cho chúng một tầm mức thần học khác biệt tận căn.

Hai đoạn văn được đề nghị cho chúng ta hôm nay được trích từ chuyện tích thứ hai về cuộc Sáng Tạo: đoạn văn thứ nhất liên quan đến cuộc sáng tạo con người (St 2: 7-9) và đoạn văn thứ hai liên quan đến cuộc thử thách và tội nguyên tổ (St 3: 1-7).

I. CUC SÁNG TO CON NGƯỜI (St 2: 7-9)

1. Con người, được sáng to đu tiên trong s mi sinh vt:

“Thiên Chúa đã ly bi đt nn nên con người”.

Trong chuyện tích thứ nhất về Cuộc Sáng Tạo trong sáu ngày, người nam và người nữ được sáng tạo đồng lúc, vào cuối công trình của Thiên Chúa, như tuyệt đỉnh của công trình sáng tạo. Trái lại, trong chuyện tích thứ hai: người nam được sáng tạo đầu tiên trước mọi sinh vật, và được sáng tạo một mình, không người nữ; người nữ sẽ xuất hiện sau nầy. Đây là cách thức mà tác giả Gia-vít sử dụng để nhấn mạnh quyền tối thượng của con người. Đấng Sáng Tạo sắp biểu lộ tất cả niềm ưu ái của mình đối với tạo vật đầu tiên của Ngài.

“Đt”, theo ngôn ngữ Hy bá: “(ha)-a-đa-ma” (“ha”: mạo từ) từ đó tác giả rút ra danh xưng chung của con người: “(ha)-a-đam” (với mạo từ: “ha”), đoạn tên riêng “A-đam” (không mạo từ). Như vậy, chúng ta có thể hiểu tên A-đam ở đây như hiện thân mỗi một con người và tội của A-đam đồng nghĩa tội của tất cả chúng ta.

Việc sáng tạo con người được mô tả “Thiên Chúa ly t bi đt nn nên con người”, sau nầy, việc sáng tạo mọi sinh vật cũng được mô tả theo cùng một cách như vậy: “Thiên Chúa ly đt nn ra chúng” (St 2: 19). Tuy nhiên, sắc thái biệt phân rất tinh tế: con người và sinh vật có chung một xác thể, vì thế, sau nầy, khi con người phạm tội, Thiên Chúa nhắc nhở cho con người nguồn gốc mỏng dòn của nó: “Ngươi là bi đt, và s tr v vi bi đt” (St 3: 19); nhưng chỉ duy một mình con người mới được Thiên Chúa “thi sinh khí vào l mũi”, chính sự khác biệt này nói lên chiều kích cao cả của con người trên mọi loại thụ tạo.

Việc Đấng Sáng Tạo được mô tả như một người thợ gốm nhào đất sét mà nặn nên con người thuộc về di sản chung của nhiều dân tộc xưa. Ở Ai-cập, chính thần Knoum sáng tạo nên con người bằng cách nặn nên họ hàng loạt trên bàn xoay của người thợ gốm. Ở Sumer, chính mẫu thần Nammu nặn nên con người đầu tiên; ở Ba-by-lon, thần Ea “vi đôi tay ca mình đã sáng to nên con người”; ở Hy-lạp, một bản văn thần thoại kể rằng thần Démiurge nhân ái đã nặn ra con người bằng đất sét thấm đẫm nước mắt của thần. Con người sinh ra từ đất, đó là niềm tin tưởng khá phổ biến vào thời đó. Nhưng, về cơ bản, chuyện tích Kinh Thánh khác biệt với các chuyện tích nầy, đó là, người thợ gốm thần linh là Đấng Sáng Tạo, từ đất Ngài nặn nên hình người và làm sinh động hình người ấy bằng sinh khí của chính Ngài.

2. Con người, mt sinh linh:

“Thiên Chúa thi sinh khí vào l mũi , và con người tr thành mt sinh vt.”

Thiên Chúa thổi hơi vào hình người bất động và làm cho nó sinh động bởi hơi thở của chính Ngài. Theo ngôn ngữ Hy bá, hơi thở và thần khí được diễn tả bởi cùng một từ. Thiên Chúa ban cho con người “thn khí ca Ngài”. “Thn khí” nầy phát xuất từ Thiên Chúa, vì thế, con người sẽ hoàn lại cho Ngài khi họ trút hơi thở cuối cùng. Thánh Gioan diễn tả cái chết của Đức Giê-su trên thập giá cũng bằng dụng ngữ này: “Ri người gc đu xung và trao Thn Khí” (Ga 19: 30).

Khi mặc khải ngôi vị của Thần Khí và ân ban của Ngài cho con người trong Đức Giê-su, Tân Ước đã cho khoa nhân loại của sách Sáng Thế chiều kích đích thật của nó. Cử chỉ của Đấng Sáng Tạo được lập lại trên mỗi người lãnh nhận bí tích Rửa Tội để thổi hơi sự sống siêu nhiên vào họ, có nghĩa họ được tái sinh.

3.  Vườn Ê-đen:

“Đon, Thiên Chúa trng mt vườn cây Ê-đen, v phía Đông, và đt vào đó con người do chính mình nn ra.”

Địa danh Ê-đen có nghĩa “khu vườn xinh đp”. Thiên Chúa đã làm nẩy sinh một ốc đảo kỳ diệu ở giữa mãnh đất trơ trụi nguyên sơ. Diễn ngữ “v phía Đông” có nghĩa là ở phía mặt trời mọc, dấu chỉ ánh sáng và sự sống.

“Thiên Chúa khiến mc lên t đt đai đ mi th cây trông đp mt, ăn ngon ming”. Trong khu vườn kỳ diệu nầy, cũng có hai loại cây không thuộc vào bất kỳ loại thảo mộc nào: “cây trường sinh”“cây biết thin ác”.

4. Cây trường sinh và cây biết thin ác:

“Cây trường sinh” là hình tượng cổ điển trong vùng Cận Đông xưa, đó là cây bất tử. Tính cách biểu tượng của nó được hổ trợ bởi bóng dáng tự nhiên (cây cao bóng cả cành lá bốn mùa xum xê) và bởi chiều kích phụng vụ: trong những thánh điện, các vị thần linh được cho là nhờ ăn trái của cây này mà bất tử. Điều này được phản ảnh ở nơi St 3: 22: sau khi con người đã ăn trái cây này, Đức Chúa là Thiên Chúa nói: “Này con người đã tr thành như mt k trong chúng ta, biết điu thin điu ác. Bây gi, đng đ nó giơ tay hái c trái cây trường sinh mà ăn và được sng mãi” (St 3: 22).

“Cây biết điu thin điu ác” là dụng ngữ sáng tạo của truyền thống Gia-vít. Có thể tác giả đã được gợi hứng, ít nhiều, từ một vị tiền nhiệm Ba-by-lon: ở lối vào nơi cư ngụ của các vị thần, có hai cây: cây trường sinh và cây chân lý. Chúng ta cũng gặp một cặp song đối nổi tiếng khác: thi hào Homère nói với chúng ta rằng trước đền thờ của các thần linh trên đỉnh núi Ô-lim-píc, có hai chậu được chôn sâu dưới đất; một chậu chứa đựng những điều thiện, chậu kia chứa đựng những điều ác.

Ở nơi diễn ngữ “biết điu thin điu ác,” từ “biết” chỉ sự hiểu biết do từ kinh nghiệm. Khác ngôn ngữ của những triết gia, ngôn ngữ Hy-bá thích liên kết những mâu thuẫn để nói lên cái toàn thể: vì thế, đây cốt là một sự khôn ngoan siêu phàm, một phẩm chất đặc biệt mà chỉ mình Thiên Chúa mới có thể sở hữu tròn đầy.

Đoạn trích dẫn ngắn hôm nay không kể ra việc Thiên Chúa canh giữ cây biết điều thiện điều ác nầy; tuy nhiên, phần tiếp theo câu chuyện cho thấy điều đó. Thiên Chúa ấn định cho con người một giới hạn bất khả vượt qua, nhưng Ngài không rào cây này để dành riêng cho Ngài; Ngài phó thác cho lương tri của con người.

Biết bao lần con người cảm nghiệm nỗi nhớ khôn nguôi về một “đi đàng đã mt”. Nỗi hoài niệm da diết nầy diễn tả cảm thức bí hiểm cho thấy con người đã không được tạo dựng để mà chịu cảnh đời bất hạnh và đau khổ, nhưng có một mầu nhiệm của Sự Dữ. Nhiều dân tộc đã có những thần thoại về vườn địa đàng của mình, không chỉ ở Đông Phương xưa và Hy lạp, nhưng trong những xã hội truyền thống của Châu Phi và Úc Châu…Ở đó người ta kể rằng con người đã đánh mất hạnh phúc, hay đã không đạt được hạnh phúc, vì do một lỗi phạm, một tai nạn, hay vì quên một mật hiệu, mà nguyên nhân được gán cho Ông Tổ, đôi khi cho một ác thần quỷ quyệt, đối thủ của Đấng Tối Cao. Nhưng chỉ ở nơi Ít-ra-en mà chúng ta mới gặp thấy hậu quả này được truy cứu lên cho đến tận nơi việc con người xúc phạm đến Đấng Sáng Tạo tốt lành và thánh thiện. Chính mầu nhiệm nầy mà tác giả linh hứng sắp toan tính minh giải.

II. TH THÁCH (St 3: 1-7)

Phần thứ hai của Bài Đọc I là phần đầu chương 3 của sách Sáng Thế, giới thiệu chuyện tích về cuộc thử thách và tội nguyên tổ. Đây là một đề tài rất phổ biến hay ít ra rất gần với đề tài quen thuộc của thể loại anh hùng ca: một vị anh hùng lấy cắp hay tìm cách lấy cắp một trong những đặc quyền của các vị thần: như ở Lưỡng Hà Địa, nhân vật Gilgamesh ra đi tìm kiếm cây trường sinh; ở Hy-lạp, Prométhée ăn cắp lửa thiêng, hoặc Héraclès đoạt lấy những trái táo trường sinh. Ngoài ra, cũng có biết bao đề tài tương tự ở Ấn Độ xưa, vân vân.

Tác giả kinh thánh biến đổi sâu xa hành động nầy khi định vị nó vào trong văn mạch thần học duy nhất và đặc thù. Ông biến đổi tham vọng của con người thành nguyên mẫu của tội cũng như tiền lịch sử của Sự Ác. Mặt khác, ông chủ ý mô tả biến cố nội tâm hơn là một biến cố bên ngoài. Bức tranh về cuộc Thử Thách là một tiểu phẩm kiệt tác về sự phân tích tâm lý.

1. Con rn:

“Rn là loài xo quyt nht trong mi loài vt hoang dã, mà Thiên Chúa đã làm ra nó”. Chuyện tích về sự thử thách bắt đầu ngay với câu then chốt gây sửng sốt nầy.

Như vậy trong tấm thảm kịch sắp diễn ra, người kể chuyện giới thiệu một nhân vật kỳ lạ, một con rắn biết nói, biểu tượng sự Ác, mà truyền thống đã nhận ra ở nơi con vật này là quỷ hay quỷ vương (Kn 2: 24). Ngay lập tức, vị ác thần nầy bị giảm thiểu đến mức tối đa: kẻ sắp tỏ mình ra là đối thủ của Thiên Chúa không gì khác hơn là một con vật (“trong mi loài vt nơi hoang dã” mà Cựu Ước chỉ ra để phân biệt với loài gia súc), một tạo vật giữa mọi tạo vật mà Thiên Chúa đã dựng nên, chứ không là một hữu thể tối cao, một ác thần như đối thủ của Thiên Chúa tốt lành. Việc giải thích Cựu Ước theo nhị nguyên: cuộc xung đột giữa Thiện và Ác,  bị loại bỏ ngay từ những trang đầu tiên của bộ Kinh Thánh.

Tại sao chọn lựa con rắn? Trước hết, trong hầu hết những chuyện tích thần thoại, cây trường sinh mà các thần linh giữ lấy cho riêng mình để hưởng dùng, chung chung được mãng xà, con rồng hay ác thú, đôi khi quái vật, canh giữ. Truyền thống Gia-vít đã hướng sự chú ý đến cây biết điều thiện điều ác, chính với điều ác mà ông liên kết con rắn. Nhưng thay vì để cho con rắn làm kẻ canh giữ không cho con người tiến gần cây biết thiện ác, thì lại mở lối cho người phụ nữ đến gần và kích động lòng ham muốn của bà ăn trái cây. Con rắn hành xử như một kẻ gian ác. Chính ở nơi nét bút đặc thù nầy mà chúng ta đánh giá sự tự do của tác giả Kinh Thánh đối với hình tượng ngoại giáo.

Vả lại, nhiều dân tộc thời xưa đã nêu bật một cách nào đó hình tượng của con rắn. Họ liệt con rắn vào số những biểu tượng của sự sống và sự tái sinh: việc rắn thay da theo định kỳ xem ra nó sở hữu những bí quyết đem lại nguồn thanh xuân vĩnh hằng. Vì thế, bộ ba: người phụ nữ – cây – con rắn thuộc vào hình tượng của những việc thờ cúng cầu xin sự phong nhiêu. Khoa ảnh tượng tôn giáo của thiên niên kỷ thứ hai trước Công Nguyên cung cấp nhiều ví dụ về đề tài nầy. Chúng ta không loại trừ rằng khoa ảnh tượng nầy đã là nguồn gợi hứng cho tác giả kinh thánh phác họa bức tranh nầy, nhưng ông đã tách nó ra khỏi ý nghĩa duy nhiên.

Mặt khác, rắn, con vật ở trong hang sâu dưới lòng đất, gợi lên mối giao du thân cận với địa giới, âm phủ, nơi ở của những vong hồn và những quỷ thần đáng sợ. Do đó, con rắn được xem như biết những bí ẩn của việc sinh tử mà địa giới nắm giữ. Cuộc đối thoại của con rắn với người phụ nữ diễn ra theo hướng nầy: con rắn tự phụ là mình biết những thiên cơ hậu vân hơn cả Thiên Chúa.

Cuối cùng, việc con rắn bị nguyền rủa không phải là không có hậu ý bút chiến. Vào thời truyền thống Gia-vít soạn thảo câu chuyện nầy, dân chúng vẫn còn tôn thờ trong đền thờ con rắn đồng được gọi Nơ-khút-tan, được đồng hóa nó với con rắn đồng mà ông Mô-sê giương cao trong sa mạc. Phải đợi đến vua Khít-ki-gia, vào thế kỷ thứ tám, mới phá bỏ việc thờ cúng ngẫu tượng nầy: “Chính vua đã dp các tế đàn nơi cao, đp b các tr đá, b các bàn th và đp tan con rn đng ông Mô-sê đã làm, vì cho đến thi đó, con cái Ít-ra-en vn đt hương kính nó; người ta gi nó là Nơ-khút-tan.” (2V18: 4).

2. Người ph n:

Con rắn ngỏ lời với người phụ nữ: “Có tht Thiên Chúa đã bo: Các ngươi không được được ăn mi th cây trong vườn không?”

Tên cám dỗ bắt chuyện với một mình người phụ nữ, vì bà đã không trực tiếp nghe những lời căn dặn của Thiên Chúa. Ngoài ra, chắc chắn nó nghĩ rằng người phụ nữ nầy dể bị xiêu lòng trước lời dụ dỗ ngon ngọt của nó hơn người nam.

Mặt khác, đề tài về người phụ nữ đầu tiên phạm tội được gặp thấy ở nơi khác. Người ta gặp lại đề tài nầy ở Hy lạp với thần thoại Pandore, trong đó người phụ nữ đầu tiên nầy mở cái chậu chứa đựng những điều xấu không phải lúc; vì thế, những điều xấu nầy tràn lan khắp mặt đất, chấm dứt hạnh phúc nguyên thủy của nhân loại.

3. Li d d di trá:

Để có thể gieo nghi ngờ vào lòng người phụ nữ, con rắn khôn khéo giả vờ ngây thơ hỏi người phụ nữ: “Các ngươi không được ăn mi th cây trong vườn sao?”. Người phụ nữ đính chính ngay tức khắc: “Ch có mt cây mà Thiên Chúa đã bo: Các ngươi không được ăn, không được đng ti, nếu không, s phi chết.”

Lúc đó, tên cám dỗ tìm cách tẩy xoá ý tưởng về Thiên Chúa tốt lành và thiện hảo trong tâm trí của người phụ nữ; nó trình bày Ngài như kẻ ghen tuông và lừa dối, muốn giữ lấy những đặc quyền cho riêng mình: “Chng chết chóc gì đâu! Nhưng Thiên Chúa biết ngày nào ông bà ăn trái cây đó, mt ông bà s m ra, và ông bà s nên như nhng v thn biết thin ác”.

Với những lời dụ dỗ bùi tai nầy, người phụ nữ bắt đầu nghi ngờ Thiên Chúa; chính ở nơi ý tưởng sai lầm về Thiên Chúa mà tội lỗi sắp bén rễ.

4. Tn thm kch ca s t do:

Lúc đó, người kể chuyện mô tả cuộc chiến đang diễn ra trong lương tri của người phụ nữ. Ông mô tả nó như cuộc chiến của một con người tự do, có trách nhiệm, hoàn toàn sáng suốt. Vì thế, không phải vì ăn trái cây biết thiện ác mà người nữ – và người nam- đã thủ đắc được sự biện phân thiện ác (như vậy sẽ là một sự nghịch lý). Sự biện phân nầy (kể cả sự tự do) là một ân huệ của Đấng Sáng Tạo ban cho thụ tạo có lý trí của Ngài. Thiên Chúa đã quá mạo hiểm khi ban sự tự do cho con người.

Vì thế, hành vi cử chỉ của người phụ nữ diễn tả ý muốn được toàn quyền quyết định, một sự tự mãn cao ngạo bất cần Thiên Chúa, nỗi khao khát tự mình quyết định Thiện Ác không cần thông qua lề luật của Thiên Chúa: “Người đàn bà thy trái cây đó ăn ngon ming, nhìn sướng mt, và đáng quí vì làm cho mình được tinh khôn…”

Người phụ nữ tiếp tục cuộc độc thoại nội tâm. Đây thực sự là một trình thuật tinh tế điển hình của sự thử thách, của cơn cám dỗ. Tội lỗi xem ra luôn luôn có sức quyến rũ đối với chúng ta..

5. Ti li:

“Bà lin hái trái cây mà ăn, ri đưa cho c chng đang vi mình, ông cũng ăn.”

“Vic cùng ăn mt trái cây” liên hết hai người thành một cộng đồng cùng chung một trách nhiệm và vận mệnh: “đng hi đng thuyn”, “đng sinh đng t”. Đó chính là những đề tài rất nổi tiếng, và hơn cả đề tài, đó chính là những hành vi cúng tế và những nghi thức kết nghĩa huynh đệ trong xã hội.

Thế nên, trong thần thoại cũng như trong thực tế, những hành vi nầy – dù là những nghi thức kết giao đính ước nên vợ nên chồng, kết nghĩa huynh đệ đồng sinh đồng tử – đều có một điểm chung nhất đó là giới thiệu một tình huống bất khả đảo ngược. Vậy nên, trong những nghi thức kết giao, ai chấp nhận thức ăn mà người khác dâng hiến, dù khác nhau về bản tính hay môi trường, người đó dứt khoát trở nên “có phúc cùng hưởng có ha cùng chu” với người nầy. Theo đó, chúng ta có thể cho rằng chính con rắn (Xa-tan) dâng hiến trái cây, nó buộc chặt con người vào với nó vô phương cứu vãn, bởi vì con người, mà hai ông bà nguyên tổ đại diện, đã chấp nhận quà tặng của nó. Theo cách nầy, chắc hẳn tác giả của chuyện tích này đã muốn diễn tả con người đồng lõa với tội lỗi. Vào đầu thiên niên kỷ thứ nhất trước Công Nguyên, những người đương thời của tác giả không phải là không biết tính chất nghiêm trọng của dấu chỉ này.

Mặt khác, thật là ý nghĩa biết bao khi truyền thống Gia-vít, vốn ý thức sâu sắc về hậu quả của tội (như phần tiếp theo của tác phẩm này cho thấy điều đó), đã chọn để mô tả tội đầu tiên, một hành vi cử chỉ bên ngoài xem ra vô hại như việc hái và ăn một trái cây, một trái duy nhất, từ cây mà người chủ vườn đã dành riêng cho mình; lẽ ra tác giả đã có thể miêu tả một tội ác tày trời (ví dụ như tội Ca-in giết em mình là A-ben). Vì lẽ, ông đã không muốn chúng ta bị nhầm lẫn về bản chất của tội: tội trước hết là một sự xúc phạm trực tiếp đến Thiên Chúa, tác động đến mối tương giao theo chiều dọc giữa Thiên Chúa và con người.

6. H thy mình trn trung:

Tất cả những gì con người đánh mất do tội, người kể chuyện diễn tả một cách gợi hình: “By gi mt hai người m ra, và h thy mình trn trung”. Sự trần truồng theo Cựu Ước có nghĩa sự yếu đuối, sự bơ vơ lạc lỏng, không nơi nương tựa, bảo vệ và che chở. Vì tội, hai ông bà đã đánh mất sự nương tựa, tức là Thiên Chúa, đã đánh mất những ân phúc tinh thần mà vườn địa đàng là biểu tượng; họ ý thức tình trạng tội lỗi của mình. Dấu chỉ đầu tiên là xấu hổ vì thấy mình trấn truồng, điều nầy đánh dấu sự đồi trụy trong mối quan hệ phái tính. Vết thương của tội chắc hẳn đã làm xáo trộn đặc biệt trật tự tính dục, và qua đó, tất cả mọi liên hệ của con người.

7. Tính lch s ca ti:

Chuyện tích của sách Sáng Thế không có tính lịch sử. Tuy nhiên, sứ điệp mà nó trao gởi cho chúng ta mặc khải cho chúng ta rằng thân phận tội lỗi của con người là một sự kiện không “thuc v bn tính”, nhưng “thuc v lch s. Thiên Chúa đã không tạo dựng con người gian ác; Ngài đã tạo dựng nên họ tốt lành và tự do (chuyện tích thứ nhất xác định:“theo hình nh và ha nh ca Ngài”). Thiên Chúa vốn rất mực tốt lành đã không thể tạo ra Sự Ác. Chính sự tự do của con người đã là mầm móng của mọi điều ác.

Tuy nhiên, con người không hoàn toàn chịu trách nhiệm về việc Sự Ác xâm nhập thế gian, còn có tên cám dỗ, đây là một tình tiết giảm tội. Đó không phải là lý do vì sao đã có sự chuộc tội cho con người, trong khi không có sự chuộc tội cho Sa-tan sao? Đức Kitô đã gợi lên tấm thảm kịch nguyên tổ nầy: “Xa-tan là tên sát nhân ngay t khi đu; nó là tên nói láo và cha ca s di trá”.

8. Kinh nghim lch s:

Chúng ta có thể nghĩ rằng để xây dựng câu chuyện của mình, nhà biên soạn Kinh Thánh đã nhận nguồn cảm hứng từ chính lịch sử Ít-ra-en. Dân Chúa chọn đã được “ly” từ hoang địa mà đưa vào Đất Hứa “chy sa và mt”, cũng như A-đam đã được “ly” từ đất hoang dã mà đặt vào trong vườn Địa Đàng. Đối với Ít-ra-en, ngoài Đất Hứa ra còn có ân ban Lề Luật; cũng như đối với A-đam, ngoài vườn Địa Đàng ra còn có huấn lệnh của Thiên Chúa. Chúng ta gặp thấy ở nơi sách Đệ Nhị Luật cũng một cách nói: “Nếu anh em nghe hun lnh ca Thiên Chúa, Chúa ca anh em, anh em s được sng…Nhưng nếu anh em thay lòng đi d…thì hôm nay tôi báo cho anh em biết: chc chn anh em s b dit vong…Tôi đưa ra cho anh em chn được sng hay phi chết, được chúc phúc hay b nguyn ra.” (Đnl 30: 15-20).

9- Nhng khía cnh ngôn s:

Những khía cạnh ngôn sứ của chuyện tích thì rất nhiều và sâu sắc.

Trong một linh cảm đáng ngạc nhiên, tác giả linh hứng đã định vị tấm bi kịch nguyên thủy vào trong một cuộc chạm trán giữa người phụ nữ với Tên Cám Dỗ, ở giữa lòng thiên nhiên còn nguyên sơ. Tin Mừng trình bày một chạm trán trực diện giữa Đức Giê-su và Xa-tan ở giữa lòng hoang địa. Người phụ nữ đã vấp ngã trong khi Đức Giê-su lại chiến thắng tên Xảo Trá. Rõ ràng, bài trình thuật Sáng Thế này là khúc dạo đầu của bài ca khải hoàn dứt khoát của Chúa Giê-su.

Khi cho nhân vật phụ nữ một vai trò ưu thế, không phải là tác giả vén mở cho chúng ta thoáng thấy một dung mạo nữ giới khác, Đức Ma-ri-a, một tạo vật duy nhất thuộc dòng giống loài người chúng ta, đã hưởng được tình trạng vô tội trước khi nguyên tổ phạm tội, tức là tình trạng “tin a-đam” như cách nói của các nhà thần học.

Đối lại với tiếng “ vâng” của bà tổ E-và với Xa-tan, sẽ là lời đáp trả “xin vâng” của Đức Ma-ri-a với sứ thần. Bà E-và ở nơi nguyên khởi của tội, Đức Ma-ri-a ở nơi nguyên khởi của Ơn Cứu Chuộc. Con người muốn trở thành Thiên Chúa, trong khi Thiên Chúa sẽ trở thành một phàm nhân, như câu nói bất hủ của thánh Giáo Phụ I-rê-nê: “Thiên Chúa làm người đ con người tr thành con cái ca Thiên Chúa”.

Thêm nữa, làm thế nào sự linh cảm nầy không làm chúng ta xúc động sâu xa hơn, thấm thía hơn? Bản văn không gợi ra một cách nào đó: đáp lại “vic ăn sinh nên ti” của hai ông bà nguyên tổ là bàn tiệc Tân Ước, ở đó “vic ăn mang li ơn cu chuc”; và đối lại những lời dụ dỗ dối trá của Tên Cám Dỗ: “Nếu ông bà ăn trái ny, ông bà s không phi chết” là những lời hứa ban sự sống của Ngôi Lời nhập thể: “Nếu các ngươi ăn bánh ny, các ngươi s không chết bao gi .

BÀI ĐC II (Romans 5:12-19)

Bài đọc II, trích từ thư của thánh Phao-lô gởi cho Giáo Đoàn Rô-ma, đã đóng một vai trò quan trọng trong lịch sử tư tưởng Kitô giáo. Chính trên bản văn nầy mà Giáo Hội đặt nền tảng cho đạo lý của mình về tội nguyên tổ, bằng cách quy chiếu đến chuyện tích của sách Sáng Thế, như thánh Phao-lô đã làm.

Thánh nhân đã đọc lại chuyện tích nầy dưới ánh sáng của mầu nhiệm Nhập Thể: chính khởi đi từ Đức Giê-su mà thánh nhân khai triển tư tưởng của mình, sự can thiệp cứu chuộc của Đức Kitô hình thành nên cơ sở của tất cả lập luận; sự liên đới của Đức Kitô với toàn thể nhân loại tội lỗi (liên đới hữu thể như lời phát biểu của thánh nhân sau nầy: “ chúng ta là thân th ca Đc Kitô,”) dọi chiếu ánh sáng trên bản văn của sách Sáng Thế. Từ đây, đối lập với triều đại tội lỗi là triều đại ân sủng.

1. Triu đi ti li:

Sau khi đã chứng minh rằng tội lỗi thống trị trên toàn thể nhân loại, thế nên, mọi người bất luận là dân Do thái hay dân ngoại, đều cần đến ơn cứu chuộc, thánh nhân truy nguyên đến tận gốc của tội bằng cách nêu bật lên sự tương phản giữa A-đam thứ nhất và A-đam thứ hai (Đức Giê-su).

Thánh nhân xây dựng lập luận của mình theo phép song đối nghịch đảo để nêu bật sự tương phản giữa A-đam thứ nhất và A-đam thứ hai (Đức Giê-su). Trong phép song đối nghịch đảo nầy, tiền đề được phát biểu một cách minh nhiên, nhưng phản đề lại không hiển hiện, ít ra không được đặt ngay liền sau đó, bởi vì các câu 13-14 được chen vào. Tuy nhiên, phản đề nầy phải được hiểu một cách mặc nhiên theo tiến trình hợp lý của phép song đối nghịch đảo: “qua A-đam đu tiên, ti li và s chết đã xâm nhp thế gian như thế nào; qua A-đam th hai (Đc Kitô) ơn công chính hóa và s sng đi đi xâm nhp thế gian cũng như thế.

Sự gián đoạn của phép song đối nghịch đảo nầy rất có ý nghĩa. Nó nói lên không có cùng chung mức độ giữa việc A-đam vi phạm và sự phục hồi được thực hiện bởi Đức Kitô. Đức Kitô là nguồn mạch viên mãn của ân sủng trong khi A-đam chỉ là con đường qua đó “ti li đã xâm nhp thế gian” và qua đó “s chết đã lan tràn ti mi người”. Chúng ta có thể dễ dàng nhận ra sự tương phản không cùng một mức độ nầy ở nơi những song đối nghịch đảo của 5: 15-17 và 5: 18-19, và lần cuối cùng 5: 20 với những ngôn từ và những chi tiết khác nhau.

Cách diễn tả nầy đến từ Kn 2: 23-24: “Qu thế, Thiên Chúa đã sáng to con người cho h được trường tn bt dit. H được Người dng nên làm hình nh ca bn tính Người. Nhưng chính vì qu d ganh t mà cái chết đã xâm nhp thế gian”.

A-đam đã mở ra một lỗ hỏng qua đó Sự Ác đã ùa vào gây ra những tàn phá. Sự Ác được trình bày như một quyền năng, hầu như được nhân cách hóa, có trước A-đam.

1.1- Ti li gây nên s chết:

Tội lỗi cũng được nhân cách hóa, như một sức mạnh thù địch chống lại con người. Sự chết cốt yếu là sự chết tinh thần (cho dù thánh Phao-lô cũng thiết lập mối liên hệ giữa sự chết thể lý và tội lỗi mà sự chết là dấu chỉ).

1.2-  S chết đã lan tràn ti mi người, bi vì mi người đã phm ti:

Câu phát biểu nổi tiếng khó dịch nầy gây nên những cuộc tranh luận và những giải thích khác nhau. Những cách giải thích khác nhau do bởi cách hiểu “đi t quan h của Hy ngữ được đặt sau giới từ chỉ nguyên nhân: “bi vì. Chung quy có hai cách đọc và hiểu đại từ quan hệ nầy.

Cách đọc thứ nhất hiểu đại từ quan hệ nầy quy chiếu đến A-đam: “Như thế s chết đã lan tràn ti mi người, bi vì ông, mi người đu phm ti”. Cách đọc nầy đặt mối quan hệ nhân quả trực tiếp giữa tội của A-đam với toàn thể nhân loại. Cách đọc thứ hai hiểu đại từ quan hệ nầy quy chiếu đến sự chết của câu đi trước theo chức năng văn phạm của câu: “Như thế s chết đã lan tràn ti mi người,  bi vì s chết ny, mi người đã phm ti”. Cách đọc nầy hiểu sự chết như chuẩn y tội phản nghich của A-đam.

Xin nhắc lại rằng Công Đồng Tren-tô đã đặt nền móng cho đạo lý về tội nguyên tổ của mình trên toàn bộ bản văn, chứ không trên một câu. Dù thế nào, thánh Phao-lô đặt sự chết tinh thần của nhân loại dưới ba mối quan hệ: Sự Ác – A-đam – mọi người, những mối quan hệ nhân quả được thêm vào mà không loại trừ nhau.

Thêm nữa, thánh nhân nhấn mạnh điều nầy trong toàn bộ chương – không một ai “do t sc riêng ca mình” có thể thoát khỏi dòng giống tội lỗi này: nhân tính đã bị thương tổn. Có mối liên hệ hữu thể giữa dòng giống loài người.

1.3- S thâm căn c đế ca ti:

Thánh Phao-lô sẽ chứng minh theo cách khác sự thâm căn cố đế của tội. Trước khi có Lề Luật Mô-sê, tội đã có mặt trong thế gian rồi.

Thánh nhân phân biệt ở đây sự vi phạm và tội lỗi. Khi có Lề Luật, việc không tuân thủ Lề Luật được xem là vi phạm; nhưng Lề Luật thực sự chỉ làm lộ ra chân tướng của tội lỗi, bộc lộ tội lỗi ra bên ngoài, vì thế Lề Luật không thể gây nên tội lỗi, bởi vì tội lỗi có trước Lề Luật.

2. Triu đi ân sng.

Rõ ràng A-đam là tiên trưng phản diện của Đức Giê-su. Chúng ta cảm thấy rằng thánh nhân đã bị đánh động, nếu không muốn nói bị đảo lộn bởi viễn cảnh phi thường nầy: Đức Kitô tự đặt mình liên đới với nhân loại tội lỗi để phá vỡ mối dây ràng buộc nhân loại với sự ác và giúp con người có khả năng tìm gặp lại sự sống thần linh. Thánh Phao-lô phóng chiếu vào trong quá khứ một sự liên đới đầu tiên thuộc loại suy trên dung mạo của A-đam,. Nhưng sự liên đới thứ hai thì cao vời vô tận so với sự liên đới đầu tiên. Nguồn ân sủng sung mãn trổi vượt biết mấy trên muôn vàn tội lỗi.

Chính lúc đó thánh nhân mới có thể lấy lại sự so sánh còn bỏ ngỏ: “Tht vy, nếu vì mt người duy nht đã sa ngã, mà muôn người phi chết, thì ân sng ca Thiên Chúa ban nh mt người duy nht là Đc Giê-su Kitô, còn di dào hơn biết my cho muôn người.” (Romans 5:15b). Đó là điểm nhắm mà thánh Phao-lô muốn đạt đến: triều đại tội lỗi đến hồi kết thúc, trong khi triều đại ân sủng được thiết lập muôn đời bền vững. Đức Kitô, vị lãnh tụ mới của con cái loài người, hướng dẫn loài người đạt đến ơn công chính hóa và sự sống.

TIN MNG (Matthew 4:1-4)

Việc Chúa Giê-su rút vào hoang địa và chịu ma quỷ cám dỗ được cả ba Tin Mừng Nhất Lãm tường thuật. Dù có nhiều chi tiết khác nhau, tuy nhiên cả ba đều đặt biến cố này ngay sau khi Đức Giê-su chịu phép rửa bởi Gioan Tẩy Giả. Cả ba Tin Mừng đều nhấn mạnh rằng việc Chúa Giê-su rút lui vào hoang địa và chịu ma quỷ cám dỗ là dưới tác động của Chúa Thánh Thần.

1. Gc tích câu chuyn:

Không ai được chứng kiến tận mắt biến cố nầy, vì thế phải giả sử rằng nguồn cung cấp duy nhất của mọi dữ kiện nầy không ai khác hơn ngoài Đức Giê-su. Đây là cuộc chuyện trò riêng tư giữa Thầy và trò. Vì thế, chúng ta đến câu chuyện nầy với lòng cung kính tuyệt đối, vì qua đó Đức Giê-su đã thổ lộ những sâu kín trong lòng của Ngài. Ngài đã cho loài người biết kinh nghiệm của chính Ngài. Đây là câu chuyện thánh hơn hết vì qua đó Đức Giê-su muốn nói với mỗi người rằng Ngài có thể giúp đỡ chúng ta trong cơn cám dỗ. Từ những cuộc chiến đấu của chính Ngài, Ngài đã cho chúng ta thấy Ngài có thể giúp chúng ta trong cuộc chiến đấu của chính chúng ta. Vào cuối đời, Đức Giê-su đã có thể nói với các môn đệ: “Còn anh em, anh em vn mt lòng gn bó vi Thy, gia nhng lúc Thy gp th thách gian nan” (Lc 22: 28). Vả lại, Đức Giê-su ám chỉ rõ ràng đến sự chiến thắng của Ngài trên quyền lực quỷ vương  trong dụ ngôn về một kẻ mạnh bị trói. Đám đông hỏi Ngài nhờ ai mà Ngài xua trừ ma quỷ, Đức Giê-su trả lời: “Làm sao người ta có th vào nhà mt k mnh và cướp ca được, nếu không trói k mnh y trước đã, ri mi cướp sch nhà nó?” (Matthew 12:29).

2. Hoang đa:

Hoang địa nơi Đức Giê-su rút lui là sa mạc Giu-đê, trải dài giữa Giê-ru-sa-lem và Biển Chết. Dãi đất hoang vu nầy toàn cát vàng, đá vôi bể vụn và đá sỏi rải rác. Đó là nơi Đức Giê-su thấy mình trơ trọi hơn bất cứ nơi nào khác trong toàn xứ Palestine. Những chước cám dỗ đã có thể mặc lấy hình thức của cuộc tranh luận nội tâm, diễn ra trong suốt cuộc rút lui vào hoang địa nầy, như Mác-cô và Lu-ca gợi ra, đoạn đạt đến cực điểm, vì sự yếu nhược thể lý của Đức Giê-su, do bởi ăn chay lâu dài.

Đức Giê-su chuẩn bị sứ mạng của mình trong thinh lặng, cầu nguyện và chay tịnh. Hơn nữa, khi người ta ăn chay, có nghĩa người ta khiêm tốn nhận ra mình là tội nhân. Việc Đức Giê-su chay tịnh được định vị vào trong tiến trình nối tiếp sau việc Ngài chịu phép rửa, như vậy Ngài cũng muốn được liên đới với toàn thể nhân loại tội lỗi.

Đồng thời, Đức Giê-su cũng bày tỏ ước nguyện của mình là thu tóm ở nơi bản thân mình vận mệnh của dân Ngài. Như dân Ngài, Ngài đã kinh qua cuộc lưu đày ở Ai-cập khi còn ấu thơ; bây giờ, Ngài trải qua kinh nghiệm ở hoang địa bốn mươi đêm ngày, con số này nhắc nhở bốn mươi năm dân Do thái đã trải qua trong hoang địa, cũng như bốn mươi đêm ngày ông Mô-sê chuẩn bị để đón nhận những lời Giao Ước trên núi Xi-nai.

Chính ông Mô-sê mà thánh ký đặc biệt nghĩ đến, như được bày tỏ trong câu chuyện cám dỗ này. Như ông Mô-sê xuống núi Xi-nai để công bố Giao Ước, Giao Ước này thiết lập dân Ít-ra-en thành dân Chúa chọn; cũng vậy, Đức Giê-su sẽ rời bỏ hoang địa để thiết lập một Giao Ước Mới và khai sinh một dân Ít-ra-en mới. Song song với bốn mươi ngày trong hoang địa, chúng ta cũng sẽ gặp thấy cùng khoảng thời gian giữa biến cố Phục Sinh và biến cố Thăng Thiên của Đức Giê-su : « Trong bn mươi ngày, Người đã hin ra nói chuyn vi các ông v Nước Thiên Chúa » (Cv 1: 3).

3. Ba chước căm d :

Ba chước cám dỗ diễn tiến theo trình tự của ba chước cám dỗ chính yếu mà dân Do thái đã trải qua trong hoang địa : bánh man-na (Xh 16 : 4), điềm thiêng dấu lạ (Xh 17) và thờ ngẫu tượng : bò vàng (Xh 32). Nhưng trong khi dân Ít-ra-en thất bại trước những chước cám dỗ này, thì Đức Giê-su lại chiến thắng vẻ vang.

Mặt khác, ba chước cám dỗ này đều có một nét chung : cả ba đều được sắp xếp nhằm trình bày những quan niệm sai lầm về Đấng Mê-si-a mà Đức Giê-su sẽ gặp phải trong suốt sứ vụ của Ngài. Trong hoang địa, Ngài có đủ sáng suốt và sức mạnh cần thiết để chế ngự chúng.

3.1- Đng Mê-si-a trn thế :

Sau khi đã ăn chay suốt bốn mươi đêm ngày, Đức Giê-su đói. Quỷ cám dỗ Ngài biến những hòn đá thành bánh: “Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì truyn cho nhng hòn đá này hóa bánh đi !”. Quỷ muốn thử thách quyền năng của Đấng đã nhận tước hiệu nầy vào lúc Ngài chịu phép rửa. Cũng một cách như vậy, những kẻ thù Ngài chế nhạo và thách đố Ngài ở dưới chân thập giá: “Hãy cu ly mình đi, nếu mày là Con Thiên Chúa” (Matthew 27:40). Hai chước cám dỗ nầy song song với nhau : lạm dụng quyền Con Thiên Chúa để mưu cầu tư lợi. Đức Giê-su đã đẩy lùi cơn cám dỗ nầy : Ngài sẽ chỉ sử dụng quyền năng để phục vụ tha nhân.

Xưa kia dân Do thái trong khi phải đói trong hoang địa đã nhận được bánh man-na; Mô-sê cảnh giác họ đề phòng mọi tham lam của cải vật chất: “Người ta sng không ch nh cơm bánh…” (Đnl 8: 3). Đức Giê-su đáp lại Xa-tan cũng bằng những lời nầy. Cái đói mà Ngài đến để làm no thỏa là cơn đói Lời Chúa. Trong câu trả lời của Ngài, Đức Giê-su không chỉ không để lộ chân tính của Ngài, nhưng tự đồng hoá mình với nhân loại: Người ta sng không ch nh cơm bánh”.

Một ngày kia, trong khi Đức Giê-su đói, các môn đệ của Ngài mang đến cho Ngài lương thực, Ngài trả lời: “Thy phi dùng mt th lương thc mà anh em không biết…Lương thc ca Thy là thi hành ý mun ca Đng đã sai Thy…” (Ga 4: 32-33).

3.2- Đng Mê-si-a uy quyn:

“Sau đó, ma qu đem Người đến thành thánh, và đt Người trên nóc đn th, ri nói vi Người: “Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì gieo mình xung coi”.

Quỷ đề nghị với Đức Giê-su thực hiện một kỳ công ngoạn mục, nhờ đó Ngài có được một uy thế lớn lao đối với dân chúng. Với sự khôn khéo xảo quyệt, Xa-tan trích dẫn Thánh Vịnh 91, 11-12, 15 theo đó người công chính hoàn hảo, được Thiên Chúa phù trì che chở và truyền cho thiên sứ tay đỡ tay nâng cho khỏi bị vấp chân vào đá.

Xưa kia, trong hoang địa, chính dân Do thái cũng đã thách thức Thiên Chúa: nếu Ngài không ban cho họ nước uống ngay tức khắc, thì họ sẽ nghi ngờ Ngài (Xh 17: 1-7), dù Thiên Chúa đã ban cho họ bánh kỳ diệu. Nhờ quyền năng Thiên Chúa, Mô-sê đã ban cho họ nước phun ra từ tảng đá, tuy nhiên ông trách cứ nghiêm khắc dân cứng đầu cứng cổ nầy: “Anh em đng thách thc Đc Chúa, Thiên Chúa ca anh em” (Đnl 6: 16).

Đức Giê-su đã trả lời cho sự thách đố của Xa-tan cũng bằng chính lời của Mô-sê : « Ngươi ch thách thc Đc Chúa là Thiên Chúa ca ngươi ». Đức Giê-su bác bỏ lời đề nghị của Xa-tan: Ngài không đòi hỏi Thiên Chúa độ trì che chở Ngài đến độ đặt Ngài ra ngoài thân phận thường tình của con người. Sau nầy, Đức Giê-su cũng đã nhiều lần bị thách thức theo chiều hướng nầy: những người Biệt Phái đòi hỏi Ngài một dấu lạ ngoạn mục để chứng thực Ngài là Đấng Mê-si-a. Nhưng Ngài sẽ không bao giờ ban cho họ.

3.3- Đng Mê-si-a thng tr thế gii :

Chước cám dỗ thứ ba được định vị trong môi trường khải huyền: một ngọn núi tưởng tượng, Sa-tan chủ tể của mọi vương quốc… Chắc chắn, những hình ảnh nhấn mạnh sức mạnh của cuộc chiến nội tâm mà Đức Giê-su phải đương đầu: chước cám dỗ về một Đấng Mê-si-a thống trị thế giới.

Đấng Mê-si-a mà dân Do thái chờ đợi mặc lấy nhiều khía cạnh; nhưng phần đông hy vọng một Đấng Mê-si-a khải hoàn và chiến thắng, Đấng sẽ khôi phục lại vương quốc Đa-vít và, qua đó, sẽ cho phép Thiên Chúa thống trị toàn thế giới. Một chương trình tuyệt vời, nhưng không một chút nào là chương trình của Đức Giê-su. Ngài đã đến với tư cách là “Người Tôi T“Con Người”, đó là hai tước hiệu Mê-si-a mà Ngài quy chiếu về mình. Khi đám đông phấn chấn muốn tôn Ngài lên làm vua, Ngài liền lánh mặt (Galatians 6:15). Và ở Xê-da-rê khi thánh Phê-rô muốn chống đối viễn cảnh của Đấng Mê-si-a đau khổ, Đức Giê-su mạnh mẽ đẩy lùi cơn cám dỗ nầy: “Xa-tan, hãy lui li đng sau Thy!” (Matthew 16:23). Đó cũng là mệnh lệnh mà Ngài ra lệnh cho Tên Cám Dỗ trong hoang địa : « Xa-tan kia, xéo đi ! ». Trong cuộc đời của Ngài, chưa bao giờ xảy ra một cuộc chiến đấu với sự cám dỗ nào dữ dội như cuộc chiến đấu tại vườn Cây Dầu, khi quỷ tìm cách cám dỗ Ngài từ chối con đường thập giá.

Thánh ký đồng hoá quyền thống trị thế giới với sự khuất phục Xa-tan. Sau nầy, Đức Giê-su vạch mặt chỉ tên Xa-tan là “th lãnh thế gian ny » (x. Ga 12: 31; 14: 30; 16: 11; 1 Galatians 3:8). Thánh Phao-lô cũng đồng hoá những quyền thống trị thế giới với những thế lực của Sự Ác, vì vào lúc đó, quyền nầy là quyền của thế giới ngoại giáo và quyền thờ lạy ngẫu tượng (Ephesians 6:12).

Xưa kia, ngay cả trước khi vào Đất Hứa, dân Do thái để cho mình bị cám dỗ bởi việc thờ lạy tà thần (thờ bò vàng), Mô-sê đã mạnh mẽ xác quyết: “Chính Đc Chúa, Thiên Chúa ca anh em, là Đng anh em phi kính s; chính Người là Đng anh em phi phng th (Đnl 6: 13). Đức Giê-su cũng đáp trả bằng những lời xác quyết mạnh mẽ như thế : « Ngươi phi bái ly Đc Chúa là Thiên Chúa ca ngươi, và phi th phượng mt mình Người mà thôi ».

Lúc đó, một chi tiết thật là có ý nghĩa: “Lp tc có thiên s đến gn hu h Người”, nghĩa là, Đức Giê-su đích thật là Đấng Công Chính hoàn hảo mà Thánh vịnh 91 gợi lên.

Đức Giê-su đã không chọn những của cải trần thế, nhưng sự nghèo khó; Ngài đã không chọn uy thế, nhưng sự khiêm hạ; Ngài đã không chọn thờ ngẫu tượng của quyền thống trị thế giới: Ngài thích bị kết án một cách bất công là “ vua dân Do thái” hơn.

Lm Ignatiô H Thông

Kinhthanhvn.org

Romans 5:12-19
View in: NAB
12Wherefore as by one man sin entered into this world, and by sin death; and so death passed upon all men, in whom all have sinned.
13For until the law sin was in the world; but sin was not imputed, when the law was not.
14But death reigned from Adam unto Moses, even over them also who have not sinned after the similitude of the transgression of Adam, who is a figure of him who was to come.
15But not as the offence, so also the gift. For if by the offence of one, many died; much more the grace of God, and the gift, by the grace of one man, Jesus Christ, hath abounded unto many.
16And not as it was by one sin, so also is the gift. For judgment indeed was by one unto condemnation; but grace is of many offences, unto justification.
17For if by one man's offence death reigned through one; much more they who receive abundance of grace, and of the gift, and of justice, shall reign in life through one, Jesus Christ.
18Therefore, as by the offence of one, unto all men to condemnation; so also by the justice of one, unto all men to justification of life.
19For as by the disobedience of one man, many were made sinners; so also by the obedience of one, many shall be made just.
Matthew 4:1-11
View in: NAB
1Then Jesus was led by the spirit into the desert, to be tempted by the devil.
2And when he had fasted forty days and forty nights, afterwards he was hungry.
3And the tempter coming said to him: If thou be the Son of God, command that these stones be made bread.
4Who answered and said: It is written, Not in bread alone doth man live, but in every word that proceedeth from the mouth of God.
5Then the devil took him up into the holy city, and set him upon the pinnacle of the temple,
6And said to him: If thou be the Son of God, cast thyself down, for it is written: That he hath given his angels charge over thee, and in their hands shall they bear thee up, lest perhaps thou dash thy foot against a stone.
7Jesus said to him: It is written again: Thou shalt not tempt the Lord thy God.
8Again the devil took him up into a very high mountain, and shewed him all the kingdoms of the world, and the glory of them,
9And said to him: All these will I give thee, if falling down thou wilt adore me.
10Then Jesus saith to him: Begone, Satan: for it is written, The Lord thy God shalt thou adore, and him only shalt thou serve.
11Then the devil left him; and behold angels came and ministered to him.
Romans 5:12-19
View in: NAB
12Wherefore as by one man sin entered into this world, and by sin death; and so death passed upon all men, in whom all have sinned.
13For until the law sin was in the world; but sin was not imputed, when the law was not.
14But death reigned from Adam unto Moses, even over them also who have not sinned after the similitude of the transgression of Adam, who is a figure of him who was to come.
15But not as the offence, so also the gift. For if by the offence of one, many died; much more the grace of God, and the gift, by the grace of one man, Jesus Christ, hath abounded unto many.
16And not as it was by one sin, so also is the gift. For judgment indeed was by one unto condemnation; but grace is of many offences, unto justification.
17For if by one man's offence death reigned through one; much more they who receive abundance of grace, and of the gift, and of justice, shall reign in life through one, Jesus Christ.
18Therefore, as by the offence of one, unto all men to condemnation; so also by the justice of one, unto all men to justification of life.
19For as by the disobedience of one man, many were made sinners; so also by the obedience of one, many shall be made just.
Romans 5:15
View in: NAB
15But not as the offence, so also the gift. For if by the offence of one, many died; much more the grace of God, and the gift, by the grace of one man, Jesus Christ, hath abounded unto many.
Matthew 4:1-4
View in: NAB
1Then Jesus was led by the spirit into the desert, to be tempted by the devil.
2And when he had fasted forty days and forty nights, afterwards he was hungry.
3And the tempter coming said to him: If thou be the Son of God, command that these stones be made bread.
4Who answered and said: It is written, Not in bread alone doth man live, but in every word that proceedeth from the mouth of God.
Matthew 12:29
View in: NAB
29Or how can any one enter into the house of the strong, and rifle his goods, unless he first bind the strong? and then he will rifle his house.
Matthew 27:40
View in: NAB
40And saying: Vah, thou that destroyest the temple of God, and in three days dost rebuild it: save thy own self: if thou be the Son of God, come down from the cross.
Galatians 6:15
View in: NAB
15For in Christ Jesus neither circumcision availeth any thing, nor uncircumcision, but a new creature.
Matthew 16:23
View in: NAB
23Who turning, said to Peter: Go behind me, Satan, thou art a scandal unto me: because thou savourest not the things that are of God, but the things that are of men.
Galatians 3:8
View in: NAB
8And the scripture, foreseeing, that God justifieth the Gentiles by faith, told unto Abraham before: In thee shall all nations be blessed.
Ephesians 6:12
View in: NAB
12For our wrestling is not against flesh and blood; but against principalities and power, against the rulers of the world of this darkness, against the spirits of wickedness in the high places.