CHÂN DUNG GIÁO LÝ VIÊN HÔM NAY

 

CHÂN DUNG GIÁO LÝ VIÊN HÔM NAY
(Thứ Năm 22/4/2004)

Khi Đức Giêsu sắp về Trời và ra lệnh truyền cho các Tông Đồ: « Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em » (Mt 28, 18-20)

Người đã muốn Giáo Hội trở nên người loan báo Tin Mừng cứu độ và thày dạy chân lý cho mọi người, tức là làm Giáo Lý Viên trong ý nghĩa đầy đủ và cao cả nhất của từ này. Các mục tử kế tục các Tông Đồ – giáo hoàng, giám mục, linh mục cũng có chung sứ mệnh như thế. Đây là một công việc lớn lao và mênh mông, là trách nhiệm chủ yếu của các mục tử, nhưng một mình các ngài thì không thể nào làm xuể được. Do đó, Giáo Hội mời gọi cả các tu sĩ và giáo dân tham gia cộng tác vào công việc này.

Giảng dạy giáo lý, còn gọi là huấn giáo, bao gồm toàn bộ các nỗ lực được huy động trong Giáo Hội để đào tạo môn đệ, giúp con người tin vào Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, hầu nhờ đức tin họ được sống nhân danh Người, để giáo dục và chỉ dẫn họ trong cuộc sống đời này, và nhờ thế, xây dưng Thân mình Đức Kitô

Huấn giáo mật thiết với toàn bộ đời sống của Giáo Hội. Chính nhờ Huấn giáo, Giáo Hội không những phát triển về địa dư và về số lượng mà nhất là sự tăng trưởng bên trong và đáp ứng ý định cứu độ của Thiên Chúa

Đề tài ban tổ chức giao cho chúng tôi trình bày là « Chân dung người giáo lý viên hôm nay ».

Vậy chúng tôi xin trình bày đề tài theo bố cục tổng quát như sau:

  • I. Tình hình giáo lý viên hiện nay.
  • II. Giáo Hội cần có những giáo lý viên như thế nào ?
  • III. Phải làm gì để có được những giáo viên như Giáo Hội mong ước ?

I. TÌNH HÌNH GIÁO LÝ VIÊN HIỆN NAY

Tu sĩ hay giáo dân tham gia tác vụ giảng dạy giáo lý thì cũng đều có thể được kể là giáo lý viên. Nhưng trong thực tế, thói quen vẫn hay dùng từ này để chỉ giáo lý viên giáo dân nhiều hơn, còn giáo lý viên tu sĩ thường vẫn được chỉ danh là tu sĩ thôi. Thói quen này cũng sẽ thường được áp dụng trong bài thuyết trình này.

Thiếu giáo lý viên được huấn luyện đúng mức

Trong khi lực lượng tu sĩ tham gia giảng dạy giáo lý – mà đa số là nữ tu – thường được huấn luyện về giáo lý cũng như sư phạm, thì không phải mọi giáo lý viên đều được huấn luyện đầy đủ để thi hành công tác này.

Điều đáng suy nghĩ là hình như chưa có giáo phận nào ở Việt Nam có được một trường hay trung tâm huấn luyện giáo lý viên chính danh. Bù đắp lại có chăng là đây đó có được những khóa huấn luyện mà nội dung chương trình, thời hạn đào tạo cũng rất đa dạng tùy nơi, tùy thời và tùy hòan cảnh. Có giáo phận, như Giáo phận Kontum, thời gian huấn luyện tập trung khá dài, hình như lên tới cả vài năm. Các nơi khác thường chỉ từ vài tuần đến vài tháng với số giờ học cả khóa thường khoảng mấy chục giờ, có thể được huấn luyện tập trung nhiều buổi trong một thời gian ngắn hoặc một buổi mỗi tuần trong một thời gian dài. Có khi những khóa huấn luyện là do Giáo phận tổ chức, điều này ít khi xảy ra ở một số nơi trong thời gian trước đây. Riêng ở Tổng giáo phận Thành phố HCM, từ khoảng năm năm trở lại đây, Tòa TGM đã liên tiếp tổ chức các khóa huấn luyện giáo lý viên dành cho các giáo xứ trong Tổng giáo phận, mà ứng viên được chọn trong những người trẻ tình nguyện từ các giáo xứ; chương trình huấn luyện gồm có ba cấp cơ bản và những khóa chuyên sâu nhằm thỏa mãn nhu cầu dạy giáo lý cho nhiều lọai đối tượng khác nhau. Mỗi khóa có cả ngàn người được huấn luyện. Các Giáo phận khác cũng càng ngày càng có những nỗ lực tương tự. Khi chưa tổ chức được một cách quy mô cho cả Giáo phận, thì cũng có những khóa do từng hạt hay từng liên xứ tổ chức, nhưng không phải nơi nào cũng có điều kiện tổ chức. Tại một số giáo xứ, đặc biệt tại các giáo xứ lớn có đông giáo dân, cha xứ có thể tự huấn luyện giáo lý viên cho nhu cầu mục vụ của giáo xứ mình. Nhưng cũng có nhiều giáo xứ không làm được điều này. Có nhiều khi cha xứ chỉ việc chọn lựa dăm ba giáo dân có uy tín trong giáo xứ, không có một sự chuẩn bị đặc biệt nào khác, để phụ giúp ngài trong việc này khi có nhu cầu. Giáo xứ nào may mắn có được những giáo lý viên vốn là cựu chủng sinh hay cựu tu sĩ có đầy đủ khả năng cho công việc và vẫn còn nhiệt tình tham gia giảng dạy thì trách vụ của mục tử nơi đó được nhẹ bớt rất nhiều. Ngoài ra, cũng có những giáo dân tuy không qua những khóa đào tạo chính quy nào, nhưng đã theo đuổi hoặc những lớp thần học cơ bản, những lớp Kinh Thánh,v.v…, hay tự trau dồi bằng những sách giáo lý và tài liệu của Giáo Hội, sẵn sàng chia sẻ công việc này với cha xứ khi có yêu cầu.

Cũng còn phải nói đến nhiều trường hợp của những anh chị em giáo dân, tuy không được huấn luyện chuyên môn bao giờ, nhiều khi cũng không có trình độ văn hóa bao nhiêu, nhưng do lòng yêu mến Chúa, nhất là do muốn đáp lại lời Chúa mời gọi rộng rãi hết mọi Kitô hữu vào làm vườn nho nhà Chúa, nên đứng trước nhu cầu cấp bách của việc loan báo hay tái loan báo Tin Mừng, cũng sốt sắng tham gia công việc tốt lành này. Có những người sẵn sàng đến chỗ nào thuận tiện đối với thụ viên, kể cả đến tận nhà dự tòng hay những Kitô hữu lớn bé có nhu cầu, phục vụ luôn cả một nhóm hay từng cá nhân, tùy theo hoàn cảnh, nhất là ở những nơi thiếu vắng linh mục và tu sĩ. Những « giáo lý viên » tự nguyện đầy thiện chí này thường không biết cách trình bày giáo lý cho có hệ thống, nhất là khi căn bản giáo lý lãnh hội từ xa xưa chưa được củng cố đúng mức, sự truyền đạt nhiều khi có nhiều thiếu sót, không được kết quả như mong muốn, nhưng chỉ biết một lòng nhiệt thành làm hết sức mình, vì lợi ích các linh hồn. Đã có những vùng hẻo lánh xa xôi, chỉ có một số gia đình công giáo vốn là di dân tự do, hay đã bị lôi cuốn trong những chương trình giãn dân lập ấp, sống rải rác giữa lương dân, không nhà thờ, không có linh mục hay tu sĩ nào đặt chân đến, nhưng họ vẫn tiếp tục giữ đạo được, nhờ có những « giáo lý viên » tự phong này. Có những vùng vì hoàn cảnh éo le lại trở nên những địa điểm nhạy cảm về chính trị, sự lui tới của linh mục, tu sĩ hay giáo lý viên từ bên ngoài vào hết sức bị hạn chế nếu không phải là bất khả, thì vai trò của giáo lý viên tại chỗ là hết sức quý báu và cần thiết.

Sau cùng, nhưng không phải là kém cỏi nhất, đó là một lọai giáo lý viên rất độc đáo của Giáo Hội ở trên các cao nguyên, là sáng kiến có từ lâu đời của các thừa sai và vẫn còn giữ nguyên tính cách hợp thời của mình, đó chính là các giáo lý viên người dân tộc thiểu số được gọi là giáo phu. Có thể nói đây chính là ân huệ đặc biệt quý giá của Chúa Thánh Thần, và cũng là niềm tự hào của Giáo Hội Việt Nam. Đó là những giáo dân được chọn lựa từ các buôn làng, được huấn luyện khá cẩn thận trong một thời gian đáng kể, để trở về phục vụ ở buôn làng của mình, vừa như một giáo lý viên, vừa như cánh tay nối dài của mục tử để hướng dẫn mục vụ cho cộng đoàn. Trong tình hình khó khăn hiện tại của một số nơi, sự lui tới của mục tử trở nên khó khăn, vai trò của chú giáo phu càng chứng tỏ là hết sức quan trọng.

Nhưng dù mới đây đã có nhiều nỗ lực đáng mừng về việc huấn luyện giáo lý viên, thì số lượng giáo lý viên có khả năng vẫn còn khá mỏng so với nhu cầu của Giáo Hội chúng ta, vốn còn là một giáo hội truyền giáo. Vì tuy chúng ta là một giáo hội đã có một lịch sử gần nửa thiên niên kỷ, nhưng tỷ lệ giáo dân trên dân số còn hết sức khiêm tốn: 5,5 triệu tín hữu trên dân số 80 triệu người, tức là mới có 6,6%! Việc loan báo Tin Mừng cũng như giảng dạy giáo lý ở nhiều nơi vẫn còn dựa vào linh mục và tu sĩ là chính, thiếu sự tham gia đúng mức của giáo dân. Trong số 2308 giáo xứ của 25 Giáo phận có tới 987 giáo xứ không có linh mục. Có nhiều cha xứ phải coi sóc rất nhiều giáo họ nhỏ, thậm chí có khi con số giáo họ phải đảm trách lên tới hàng chục. Nhiều nơi, nỗ lực truyền bá Tin Mừng cho lương dân chưa được quan tâm đúng mức, nếu không muốn nói là còn quá chểnh mảng, ngay ở những nơi thị tứ, chứ đừng nói gì những nơi thôn quê, những vùng sơn cước xa xôi, vì không có đủ nhân sự thích hợp. Trước nhu cầu của mùa gặt bao la, giáo dân quen được nghe nhắc đến một giải pháp có vẻ là duy nhất: cầu xin cho có được nhiều thợ gặt lành nghề – được hiểu một cách hết sức đơn sơ và phổ biến là cầu xin cho có thật nhiều ơn gọi linh mục và tu sĩ, chưa mấy khi nghe nói đến việc cầu nguyện cho có thêm nhiều giáo lý viên truyền giáo.

Trên thực tế, ở đâu họat động của tu sĩ có được điều kiện dễ dàng, thì việc giảng dạy giáo lý không có gì khó khăn, khi đó giáo lý viên có thể chiếm thiểu số hay thậm chí không có. Trong những điều kiện ngược lại thì họat động của giáo lý viên có tính cách quyết định.

Bên cạnh số giáo lý viên toàn thời gian càng ngày càng hiếm đi, số giáo lý viên bán thời – vẫn còn đi học hay phải hành nghề mưu sinh và chỉ tham gia công tác dạy giáo lý một cách có giới hạn – may thay ngày càng gia tăng ở nhiều nơi, nhất là ở những nơi họat động này của giáo dân không bị hạn chế và được các vị mục tử tạo điều kiện thuận lợi và tin tưởng giao phó. Ấy là chưa nói đến những trường hợp không hiếm những giáo lý viên kiên trì làm công việc này dù phải hy sinh những quyền lợi chính đáng của mình như: cơ hội thăng tiến trong học tập, nghề nghiệp hay chức vụ, hoặc những cơ hội làm giàu, thậm chí có khi cả cơ hội hôn nhân, ấy là chưa kể đến những chuyện bất công khác có thể xảy ra cho họ ở nơi này nơi khác…

Vì nhiều nơi, nhiều lúc, thiếu sự huấn luyện đúng mức, nên không ít giáo lý viên chưa làm đúng chức năng của mình, mới chỉ làm công việc truyền thụ kiến thức về đạo Chúa, chuẩn bị một cách máy móc cho thụ nhân chịu các bí tích, hơn là giáo dục đức tin. Việc dạy giáo lý nhiều khi chỉ quen với lối truyền thụ cổ điển, không có chỗ cho phản hồi, trao đổi, đối thọai, không dành thời gian cho học viên nêu câu hỏi hay đưa ra những thắc mắc, vì thế lớp học thiếu sinh động, học viên thiếu tích cực, nếu không muốn nói là hoàn toàn thụ động, không chịu động não, không có sự thấu hiểu, đón nhận cần thiết. Việc dạy giáo lý thường chỉ thu vào thời gian trong lớp học, không chú ý đến việc thực hành, tức là tập thể hiện trong đời sống những điều đã được truyền đạt. Có khi giáo lý viên lại dạy rất tùy hứng, thiếu chuẩn bị, nhiều khi lại còn thiếu quan tâm đến sự khác biệt về tuổi tác, trình độ, não trạng, hoàn cảnh của các đối tượng, việc giảng dạy thiếu chiều sâu, nên không đạt được kết quả mong muốn, không giữ được kết quả lâu dài. Bởi tuy Tin Mừng đã được loan báo, nhưng chưa thực sự cảm nhận, người học chưa có xác tín, nên chưa thực sự biến đổi.

Nhưng Giáo Hội hiện thời của chúng ta- Giáo Hội hậu Công đồng Vatican II ở vào đầu thiên niên kỷ thứ ba này nghĩ thế nào về vị trí và vai trò của giáo lý viên hôm nay? Ngày nay Giáo Hội coi việc dạy giáo lý như thế nào? Ta hãy khám phá chân dung của giáo lý viên hôm nay qua câu hỏi:

II. GIÁO HỘI CẦN CÓ NHỮNG GIÁO LÝ VIÊN NHƯ THẾ NÀO ?

Giáo lý viên mà Giáo Hội cần có đương nhiên phải là những giáo lý viên đáp ứng mạnh mẽ nhất lệnh truyền tối hậu của Đức Giêsu: nhanh chóng chinh phục cho Chúa đông đảo các môn đệ ở khắp nơi.

Trong tài liệu mang tên « Hướng dẫn dành cho giáo lý viên » công bố năm 1993, Bộ Truyền giáo dựa vào tình hình thực tế trên toàn thế giới để mô tả nhu cầu giáo lý viên như sau:

a) Các giáo lý viên chuyên trách về huấn giáođảm trách các họat động sau đây :

  • * giáo dục đức tin cho ấu nhi, thanh thiếu niên và người trưởng thành;
  • * chuẩn bị cho các em lãnh nhận các bí tích khai tâm;
  • * chuẩn bị cho các đôi bạn trẻ lãnh nhận và sống bí tích hôn phối;
  • * tham gia vào việc nâng đỡ các giáo lý viên như tĩnh tâm, gặp gỡ để trao đổi kinh nghiệm…

b) Các giáo lý viên họat động tông đồđảm trách các họat động sau đây:

  • loan báo Tin Mừng cho người ngoài Kitô giáo;
  • dạy giáo lý cho dự tòng;
  • hướng dẫn cộng đoàn chia sẻ Lời Chúa và cầu nguyện, đặc biệt trong phụng vụ ngày Chúa Nhật khi không có linh mục;
  • linh họat trong các cộng đoàn cơ bản;
  • giúp đỡ bệnh nhân, cử hành nghi thức tẩm liệm, an táng;
  • huấn luyện giáo lý viên trong các cơ sở đào tạo;
  • đồng hành với các giáo lý viên tự nguyện;
  • hướng dẫn những sáng kiến mục vụ của cộng đoàn;
  • thăng tiến con người và công lý;
  • giúp đỡ những người nghèo khổ;
  • tổ chức các sinh họat cộng đoàn, v.v…

Những giáo lý viên này chiếm ưu thế trong các giáo xứ có địa hạt quá rộng, có nhiều cộng đoàn tín hữu xa trung tâm, hoặc khi các cha xứ, do thiếu linh mục phụ tá, tự chọn người trợ lực cộng tác toàn thời gian.

« Các nhiệm vụ và chức vụ đa dạng và phong phú trên cho thấy Chúa Thánh Thần tích cực họat động trong những giáo hội trẻ. Thánh Bộ yêu cầu các vị Mục Tử quan tâm đến các nhiệm vụ và chức vụ trên, và củng cố những chức vụ đáp ứng tốt nhất cho nhu cầu hiện nay, với cái nhìn đặc biệt hướng về tương lai.

« Có một khía cạnh khác thiết tưởng không nên coi thường, là các giáo lý viên thuộc nhiều hạng người khác nhau, nên họat động của họ có thể kiến hiệu tùy theo môi trường và văn hóa mà họ sống. Chẳng hạn, người nam đã lập gia đình thường có nhiều khả năng hơn để chu toàn nhiệm vụ linh họat cộng đoàn, người nữ thường thích hợp hơn với việc giáo dục trẻ em và thăng tiến môi trường phụ nữ theo tinh thần kitô giáo; người lớn đã lập gia đình thì chín chắn và ổn định hơn, nên có khả năng làm chứng tốt hơn nhờ sự hỗ trợ của giá trị hôn nhân kitô giáo; người trẻ thích hợp hơn để tiếp xúc với các thiếu niên và để phát huy sáng kiến vốn đòi hỏi nhiều thời giờ rảnh rỗi hơn.

« Ngoài giáo lý viên giáo dân, còn có một số đông tu sĩ dấn thân vào việc huấn giáo. Vì được thánh hiến, tu sĩ đặc biệt phải làm chứng trong lãnh vực truyền giáo, sẵn sàng và chuẩn bị chuyên môn để lãnh nhận trách vụ huấn giáo. »

Để biết Giáo Hội cần có những giáo lý viên như thế nào, tưởng cũng cần tìm hiểu xem Giáo Hội coi vai trò của giáo lý viên ra sao.

1.- Giáo Hội hết sức coi trọng vai trò giáo lý viên

Trước hết, Ta hãy lắng nghe tiếng nói đầy thẩm quyền về vấn đề này : Đức Hồng Y Jozep Tomko, Tổng trưởng Bộ Truyền giáo :

« Trong giai đọan lịch sử hết sức nhạy bén và thuận lợi này, vì nhiều lý do, do ảnh hưởng của sứ điệp kitô giáo, Bộ Truyền giáo đặc biệt quan tâm đến một số người giữ vai trò quyết định trong họat động truyền giáo : Quả vậy, sau khi duyệt xét việc huấn luyện trong các đại chủng viện (1986), nhận định đời sống và sứ vụ các linh mục (1989), Bộ quan tâm đến các giáo dân là giáo lý viên, trong Hội nghị khoáng đại tháng 4 năm 1992.

« Các giáo lý viên luôn đóng góp phần quan trọng trong công cuộc truyền bá Tin Mừng của Hội Thánh tại thế. Ngày nay họ vẫn được xem là những người truyền bá Tin Mừng không thể thay thế được, như Thông điệp Redemptoris Missio đã quả quyết.

Chính Đức Thánh Cha đã xác định vai trò đặc biệt của giáo lý viên như sau : Trong các cuộc thăm viếng mục vụ, tôi nhận thấy các giáo lý viên, nhất là trong các xứ truyền giáo, góp phần đặc biệt và hết sức cần thiết cho việc loan truyền đức tin và mở mang Hội Thánh ».

Cũng trong Thông Điệp Redemptoris Missio, Đức Gioan-Phaolô II đã mô tả lực lượng giáo lý viên hôm nay như « những chuyên viên, những chứng nhân trực tiếp, những người loan báo Tin Mừng không thể thiếu, những người tiêu biểu cho sức mạnh cơ bản của các cộng đoàn tín hữu, đặc biệt trong các giáo hội trẻ ».

2.- Giáo Hội coi ơn gọi làm giáo lý viên là một đặc sủng

« Ơn gọi giáo lý viên không những bắt nguồn từ bí tích Thánh Tẩy và Thêm Sức, mà còn do lời mời gọi đặc biệt của Chúa Thánh Thần, hay một ‘đặc sủng được Giáo Hội nhìn nhận’ và được giám mục minh nhiên ủy nhiệm… Trong thực tế truyền giáo, ơn gọi giáo lý viên vừa có tính ‘ chuyên biệt’ vì dành riêng cho Huấn giáo, vừa có tính ‘tổng quát’ vì tham gia vào các tác vụ tông đồ để gieo trồng và phát triển Giáo Hội.

«Ơn gọi giáo lý viên trong các miền truyền giáo được xác định bởi bốn yếu tố chung và riêng:

· lời mời gọi của Chúa Thánh Thần;

· sứ mạng của Giáo Hội;

· tham gia vào tác vụ tông đồ của giám mục;

· mối liên hệ đặc biệt với họat động truyền giáo của Giáo Hội, họat động đến với muôn dân.

Bởi vậy « giáo lý viên không phải đơn thuần chỉ là người giúp đỡ vị linh mục, nhưng thực sự là chứng nhân của Đức Kitô trong cộng đoàn của mình»

« Giáo lý viên, theo định nghĩa của Bộ Truyền giáo, là một giáo dân được Giáo Hội đặc cử, tùy theo những nhu cầu tại chỗ, để làm cho Đức Kitô được nhận biết, yêu mến và noi theo, nơi những người chưa biết Chúa cũng như nơi các tín hữu ».

Giáo luật, khoản 785 triệt 1 mô tả các giáo lý viên dấn thân truyền giáo như « những giáo dân được huấn luyện đầy đủ và nổi bật về đời sống kitô giáo; dưới sự hướng dẫn của vị thừa sai, họ sẽ chuyên lo trình bầy giáo lý Tin Mừng, điều hành các công việc phụng vụ và họat động bác ái».

3.- Giáo Hội cần có những giáo lý viên là những nhà giáo dục đức tin

Việc truyền thụ kiến thức tôn giáo là cần thiết, tuy nhiên Giáo Hội không muốn giáo lý viên chỉ là người đứng lớp để truyền thụ kiến thức tôn giáo mà thôi, nhưng tiên vàn phải là người ‘khai tâm vào mạc khải về Thiên Chúa’, tức là người ‘chuyển giao đức tin’ hay ‘ nhà giáo dục đức tin’, như chính Đức Gioan -Phaolô II đã long trọng xác nhận trong Tông Huấn Catechesi Tradendae :

« Việc dạy giáo lý chân chính bao giờ cũng là khai tâm có trật tự và hệ thống vào mạc khải về Thiên Chúa mà Người đã ban cho nhân lọai, trong Đức Giêsu-Kitô

« Vì thế, ta có thể áp dụng cho các giáo lý viên điều mà Công đồng Vatican II đã nói về các linh mục: họ là nhà giáo dục – về con người và đời sống con người – trong đức tin.» ( x. CT 22, 3-4).

Công việc khai tâm này không chú trọng vào cái « có » – tức là công đọan chuyển giao kiến thức – cho bằng cái « là » – tức là làm sao cho có sự biến đổi nơi tâm hồn con người. Quá trình mà thánh Phaolô gọi là «chết đối với tội lỗi để sống cho Thiên Chúa» (Rm 6, 11). Quá trình này đòi hỏi phải có sự lắng đọng tâm hồn, tự vấn lương tâm, suy nghĩ chín chắn để có quyết tâm, có xác tín, nhất là có sự hoán cải, mà nhiều khi diễn ra cách tiệm tiến, nghĩa là đòi hỏi có một thời gian tối thiểu.

Dạy giáo lý là «dẫn đưa người ta đến chỗ dò thấu Mầu nhiệm Đức Kitô trong mọi chiều kích,… là tỏ bày trong Ngôi vị Đức Kitô tất cả ý định vĩnh cửu của Thiên Chúa đang hoàn tất, là giúp người học tìm hiểu ý nghĩa của cử chỉ và lời nói của Đức Kitô…, là làm cho người ta không những tiếp xúc nhưng còn thông hiệp thân mật với Đức Kitô : vì chỉ một mình Người có thể đưa ta đến tình yêu của Chúa Cha trong Thần Khí và làm cho ta tham dự vào đời sống của Thiên Chúa Ba Ngôi chí thánh» (x. CT 5).

Vì Giáo Hội luôn luôn là Mẹ và là Thầy, nên Giáo hội cũng cần có những giáo lý viên biết ý thức tác vụ của mình hôm nay không chỉ dừng ở việc loan báo Tin Mừng và chuẩn bị cho người ta lãnh nhận các bí tích mà thôi, nhưng còn phải làm cho các thụ viên trưởng thành trong đức tin, phải chia sẻ cả việc hướng dẫn mục vụ cho cộng đoàn, nhất là hướng dẫn cầu nguyện và thi hành đức ái :

« Bộ Truyền giáo chân nhận rằng giáo lý viên giáo dân rõ ràng là một vấn đề có tính cách thời sự. Dưới sự hướng dẫn của các linh mục, giáo lý viên tiếp tục loan báo Tin Mừng một cách chân thành cho những anh em thuộc các tôn giáo khác, chuẩn bị cho họ lãnh nhận bí tích Thánh Tẩy để gia nhập cộng đoàn Hội Thánh. Qua việc dạy giáo lý, chuẩn bị cho họ lãnh nhận các bí tích, hướng dẫn cầu nguyện và thực thi bác ái, giáo lý viên giúp các tín hữu lớn lên trong đời sống kitô hữu nhiệt thành. Nơi đâu thiếu linh mục, giáo lý viên đảm nhận luôn việc hướng dẫn cộng đoàn nhỏ ở xa trung tâm. Thông thường, họ được mời gọi chứng tỏ lòng trung thành qua việc hứng chịu mọi gian nan thử thách và mọi sự thiếu thốn. Lịch sử truyền bá Tin Mừng trước và gần đây xác nhận lòng trung kiên đến độ hiến cả mạng sống của họ. Quả thực, họ là niềm tự hào của Giáo Hội truyền giáo»

4.- Giáo Hội cần những giáo lý viên sống theo linh đạo riêng phát xuất từ ơn gọi của mình.

Công việc giáo dục đức tin tự bản chất chính là công việc của Chúa Thánh Thần, cho nên linh đạo của giáo lý viên không có gì khác hơn là sống trong Chúa Thánh Thần, Đấng không ngừng giúp họ canh tân căn tính đặc thù của mình. Trong linh đạo giáo lý viên, lời mời gọi nên thánh có thêm cơ sở mới và đặc biệt. Đức Gioan-Phaolô II nói : « Nhà truyền giáo đích thực, chính là một vị thánh ». Và câu này có thể áp dụng ngay cho giáo lý viên. Như mỗi Kitô hữu khác, giáo lý viên được mời gọi « nên thánh và truyền giáo ».

« Linh đạo này liên kết chặt chẽ với thân phận « Kitô hữu » và « giáo dân » vốn cho họ dự phần theo cách riêng của họ, vào chức vụ ngôn sứ, tư tế và vương đế của Đức Kitô. Thân phận riêng của giáo dân là tình trạng « tại thế » với « nghĩa vụ riêng là làm thấm nhập và kiện toàn trật tự trần thế với tinh thần Tin Mừng, và làm chứng cho Đức Kitô đặc biệt khi điều hành các sự việc thế trần cũng như lúc thi hành các nhiệm vụ của mình »

« Khi giáo lý viên lập gia đình, đời sống hôn nhân là thành phần của linh đạo. Đúng như Đức Thánh Cha quả quyết: « Giáo lý viên đã lập gia đình phải làm chứng một cách xứng hợp cho giá trị kitô giáo của hôn nhân, bằng cách sống bí tích qua việc trung tín trọn vẹn, sinh sản và giáo dục con cái với tinh thần trách nhiệm ». Linh đạo nối kết với hôn nhân có thể gây ảnh hưởng thuận lợi đặc biệt trên chính họat động của giáo lý viên. Giáo lý viên sẽ đưa cả vợ con hội nhập vào việc phục vụ của mình, đến độ cả gia đình thực sự là một đơn vị truyền giáo.

« Linh đạo giáo lý viên có liên hệ với ơn gọi tông đồ của họ: do đó biểu hiện qua các dự kiện sau:

  • Đón nhận Lời Chúa: Chức năng của giáo lý viên nối kết chặt chẽ với việc thông truyền Lời Chúa, vì thế khả năng tinh thần đầu tiên của giáo lý viên là đón nhận Lời Chúa, là gặp gỡ Đức Kitô ẩn giấu trong Lời Chúa, trong Bí tích Thánh Thể, và trong anh chị em.
  • Đón nhận Chúa Ba Ngôi: linh đạo giáo lý viên bén rễ trong Lời Hằng Sống theo chiều kích Ba Ngôi, tức là tham dự vào tình yêu của Chúa Cha, hiệp thông với Đức Kitô, và để Chúa Thánh Thần hướng dẫn và biến đổi thành chứng nhân can đảm cho Đức Kitô.
  • Đón nhận Hội Thánh: giáo lý viên ý thức mình là thành phần sống động của Hội Thánh, có trách nhiệm đối với Hội Thánh – là Dân Chúa và Nhiệm Thể của Đức Kitô, và cần phải sống mầu nhiệm và ân sủng đa dạng của Hội Thánh, để được phong phú hóa và trở nên dấu chỉ sống động trong cộng đoàn anh chị em.
  • Yêu mến Hội Thánh theo gương Đức Kitô, Đấng « đã yêu mến Hội Thánh và phó mình cho Hội Thánh » (Ep 5, 25), tình yêu này thúc đẩy giáo lý viên tham gia vào sứ mạng cứu độ, sẵn sàng hiến đời mình cho Hội Thánh.
  • Yêu mến thế giới: nơi Thiên Chúa đã và đang thực hiện chương trình cứu chuộc, nơi Ngôi Lời đã làm người và ban ơn cứu độ, nơi Thánh Thần được ban tặng để ban ơn thánh hóa cho con người.
  • Sống tri hành hợp nhất: trước khi loan báo Lời Chúa, linh đạo giáo lý viên đòi hỏi họ phải hiểu, cảm nghiệm và sống Lời Chúa, và làm chứng nội dung đức tin của mình. Đời sống đích thực của giáo lý viên được diễn tả qua việc cầu nguyện và cảm nghiệm về Chúa, và sẵn sàng để cho Chúa Thánh Thần hướng dẫn.
  • Sống thân thiết với Đức Mẹ và học đòi tinh thần của Ngài

III. PHẢI LÀM GÌ ĐỂ CÓ ĐƯỢC NHỮNG GIÁO LÝ VIÊN NHƯ GIÁO HỘI MONG ƯỚC?

Phần này chúng tôi ít trình bày ý riêng mà chủ yếu chỉ xin trưng dẫn hay tóm lược những gì Giáo Hội dạy mới đây, đặc biệt trong tài liệu đã dẫn của Bộ Truyền giáo.

Cũng xin nói thêm: trong thời gian chuẩn bị sọan thảo bài thuyết trình này, người viết có tiếp xúc trao đổi với ít nhiều vị đã từng giảng dạy giáo lý lâu năm hoặc những vị quan tâm đến vấn đề hệ trọng này, chúng tôi cũng ghi nhận được rất nhiều ý kiến đóng góp đầy thiện chí. Tuy nhiên chúng tôi thấy tựu chung những đề nghị đó cũng không có gì mới lạ hơn những điều rất súc tích đã được Bộ Truyền giáo trình bày liên quan đến các công việc: tuyển chọn, huấn luyện và chăm sóc giáo lý viên.

1/ Cần phải có sự tuyển chọn nghiêm túc, đó là điều kiện tiên quyết để có được những giáo lý viên xứng hợp. Để bảo đảm tính khách quan cho việc tuyển chọn ứng sinh giáo lý viên, các giáo đoàn cần lập một bảng các tiêu chuẩn đầy đủ, chính xác, thực tế, có thể kiểm chứng được, để những vị hữu trách có cơ sở quy chiếu. Việc quy định tiêu chuẩn này cần quan tâm đến các chỉ thị chungcủa Tòa Thánh, đồng thời vẫn tôn trọng những khác biệt cần thiết của mỗi địa phương. Các tiêu chuẩn phải liên quan đến :

  • đức tin được biểu lộ qua lòng đạo đức và lối sống hàng ngày;
  • lòng yêu mến Giáo Hội và sự hiệp thông với các mục tử;
  • tinh thần tông đồ và truyền giáo;
  • lòng bác ái và tinh thần phục vụ;
  • trình độ văn hóa tối thiểu;
  • thanh danh trong cộng đoàn;
  • những đức tính nhân bản cũng như luân lý, những khả năng cần thiết cho một giáo lý viên như: năng động, khả năng giao tế v.v…

Việc duyệt xét, tuyền chọn và giao trách nhiệm là do đích thân Đức Giám mục, hoặc qua trung gian một vị được ngài ủy nhiệm.

2/ Cần có sự huấn luyện thích đáng: đó là điều Huấn Quyền luôn đòi buộc, vì “nếu không được đảm nhận bởi những người có đào tạo, mọi họat động tông đồ chắc chắn sẽ thất bại”. Để được như vậy, sự huấn luyện phải có tính “toàn diện”, nghĩa là bao gồm mọi chiều kích của nhân cách giáo lý viên, và “chuyên biệt”, nghĩa là phù hợp với các đặc tính của công việc mà mỗi giáo lý viên tùy trường hợp được giao phó. Đức Gioan-Phaolô II minh định : “Ưu tiên cho chất lượng, nghĩa là ưu tiên cho việc huấn luyện căn bản thích hợp và việc cập nhật hóa luôn luôn. Để bảo đảm cho sứ vụ của Giáo Hội có nhân sự xứng hợp, cốt thiết phải có chương trình đầy đủ và cơ chế thích hợp để đảm nhận việc huấn luyện giáo lý viên về các mặt: từ huấn luyện nhân bản đến huấn luyện thiêng liêng, tín lý, tông đồ và chuyên môn

Sự huấn luyện này là bắt buộc đối với các ứng sinh và là trách nhiệm của Đấng Bản quyền và phải nhắm đạt được những mục tiêu sau đây :

a) làm cho ứng sinh có được một đời sống thống nhất, chân thực, và hài hòa.

Cần giúp họ biết dõi theo một chương trình sống có trật tự; đời sống thiêng liêng, đời sống trần thế và đời sống tông đồ phải hòa quyện vào nhau, chứ không phải là song hành với nhau, tức là toàn diện cuộc sống phải “gắn bó mật thiết với Chúa Kitô và Chúa Cha, trong Chúa Thánh Thần”.

b) làm cho các ứng sinh được trưởng thành về mặt nhân bản và thích hợp cho một trách vụ giữa cộng đoàn

Cụ thể là làm sao giúp họ có được sự quân bình tâm sinh lý, sức khỏe tốt, tinh thần trách nhiệm, tính trung thực, tính năng động, đạo đức trong sinh họat gia đình và nghề nghiệp, tinh thần hy sinh, sự mạnh bạo, tính kiên trì, khả năng thích hợp cho công tác như : khả năng tiếp xúc, đối thọai với các tôn giáo khác hay với một nền văn hóa đặc thù, khả năng truyền đạt, cộng tác và hướng dẫn, khả năng phán đoán chính xác, biết an ủi và khơi dậy niềm hy vọng, khả năng xây dựng hòa bình, khả năng thăng tiến, phát triển và linh họat văn hóa & xã hội, nhạy bén trước vấn đề công lý, y tế v.v…Tóm lại có những phẩm tính tạo nên một nhân cách trưởng thành và trọn vẹn, lý tưởng cho một giáo lý viên.

c) làm cho các ứng sinh có một đời sống thiêng liêng sâu sắc.

Đây là khía cạnh cao nhất và quý giá nhất của nhân cách, cũng là chiều kích ưu tiên của việc huấn luyện. Trọng tâm của chương trình huấn luyện là tập cho các ứng sinh biết sống hiệp thông sâu xa trong niềm tin vào Đức Kitô và yêu mến Ngài, biết lấy sự chu toàn ý Chúa Cha là lương thực của mình. Việc huấn luyện thiêng liêng diễn ra trong sự mau mắn tuân phục ChúaThánh Thần, trong đời sống bí tích và sự cầu nguyện sốt sắng. Thánh Bộ đề nghị, ít là cho các giáo lý viên điều khiển cộng đoàn, giáo lý viên toàn thời gian, nhất là những giáo lý viên mệnh danh là cán bộ khung cần phải:

  • tham dự thánh lễ hàng ngày mỗi khi có thể;
  • sống phụng vụ trong các chiều kích khác nhau;
  • đọc Phụng Vụ các giờ kinh, nhất là Kinh Sáng và Kinh Chiều;
  • suy niệm hàng ngày, đặc biệt dựa vào Lời Chúa;
  • siêng năng cầu nguyện để nuôi dưỡng sự hiệp thông với Thiên Chúa;
  • tôn sùng Đức Mẹ;
  • thường xuyên lãnh nhận bí tích hòa giải;
  • tham gia các cuộc tĩnh tâm;

Trong thời điểm cần đến sự dấn thân truyền giáo hơn bao giờ hết như hiện nay, Thánh Bộ càng chống lại các giải pháp dễ dãi liều lĩnh bằng lòng với các giáo lý viên có đời sống thiêng liêng thấp kém, và mong muốn các giáo lý viên được cung cấp những phương thế thích hợp để có được đời sống thiêng liêng khả quan. Một trong những phương thế cần lưu ý là việc linh hướng. Các giáo phận nên cử một hay nhiều linh mục để làm công việc này. Các cha xứ phải gần gũi với các giáo lý viên và quan tâm theo dõi sự tăng trưởng thiêng liêng của họ. Cũng nên có những sáng kiến về việc huấn luyện nội tâm cho họ, cũng như các môi trường cầu nguyện, các hình thức sống huynh đệ và chia sẻ thiêng liêng.

d) chuẩn bị cho các úng sinh về giáo lý

  • Giúp họ nắm vững trọn vẹn nội dung giáo lý công giáo để có thể truyền đạt lại một cách rõ ràng và sống động, không thiếu sót hay lệch lạc.
  • Các ứng sinh phải có trình độ học vấn căn bản (tất nhiên là so với tình trạng chung của xứ sở) để có thể tiếp thu những gì sẽ học hỏi.
  • Cần nhấn mạnh đến tầm quan trọng đặc biệt của Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo (được soạn thảo và công bố sau Công Đồng Vatican II) trong việc huấn luyện này. Sách giáo lý này với tất cả tính thời sự của nó cố ý phục vụ mọi giáo lý viên, và chắc chắn họ sẽ tìm thấy ở đó một nguồn cảm hứng và một kho tàng kiến thức cần thiết cho họat động chuyên môn của mình.

Các yếu tố căn bản của việc huấn luyện này gồm có:

  • Thần học về Chúa Ba Ngôi
  • Kitô học
  • Giáo Hội học
  • Cả ba yếu tố này phải được hiểu trong một tổng thể có hệ thống và tiệm tiến của sứ điệp Kitô giáo.
  • Phải bảo đảm cho mọi ứng sinh có được trình độ giáo lý và thần học tối thiểu như đã được Hội Đồng Giám Mục hay mỗi Giám mục quy định theo tiêu chuẩn chung. Phải liệu sao để việc huấn luyện thần học được toàn diện, chứ không phiến diện, để họ có được sự hiểu biết thống nhất về đức tin, nhờ đó có được sự thống nhất và hài hòa giữa nhân cách và việc tông đồ.
  • Sách Thánh là đề tài chính để giảng dạy và là linh hồn của cả việc nghiên cứu thần học. Do đó, cần phải tăng cường việc học Kinh Thánh
  • Chung quanh Sách Thánh cần cấu tạo một chưong trình gồm những ngành chính của thần học.
  • Phụng vụ cần được đào sâu để ứng sinh có thể đảm trách vai trò linh họat viên trong việc cầu nguyện của cộng đoàn.

e) chuẩn bị cho ứng sinh về tri thức

  • Cần quan tâm đến cả những chủ đề làm cho việc chuẩn bị tri thức của họ được vững chắc và cụ thể như: hội nhập văn hóa kitô giáo vào nền văn hóa cụ thể; thăng tiến con người và thăng tiến công lý trong tình hình xã hội kinh tế đặc thù; lịch sử quốc gia; các tập tục tôn giáo, ngôn ngữ; những vấn đề và những đòi hỏi của môi trường ứng sinh đang sinh sống.
  • Có thể thêm cả các môn giúp ứng viên ứng phó với các vấn đề như: các hiện tượng đô thị hóa, thế tục hóa, kỹ nghệ hóa, di dân, những đổi thay chính trị xã hội, sự biến chuyển của giới trẻ v.v…

f) chuẩn bị cho ứng sinh chu toàn các công tác mục vụ

Ứng sinh phải được hướng dẫn không chỉ để loan báo Tin Mừng và dạy giáo lý, mà còn phải được huấn luyện để giúp đỡ anh chị em sống đức tin và thờ phượng Thiên Chúa cho phải đạo, chu toàn các công tác mục vụ được giao phó trong cộng đoàn. Phải giúp họ có tinh thần trách nhiệm mục vụ và thuật lãnh đạo, có tinh thần quảng đại phục vụ, năng động và sáng tạo, hiệp thông với Giáo Hội và vâng phục các vị mục tử.

Họ cần được hướng dẫn về các lãnh vực tông đồ có thể đảm trách, để nắm bắt được các yêu cầu và biết cách đáp ứng các yêu cầu đó.

Họ được tìm hiểu đặc điểm của từng hạng đối tượng thụ giáo và những cách thức thích hợp để hướng dẫn họ.

Cách riêng phải huấn luyện cho họ về mục vụ các bí tích để họ có thể giúp các tín hữu hiểu rõ hơn ý nghĩa của các dấu chỉ này và tin tưởng đến với các nguồn mạch sự sống siêu nhiên không hề vơi.

g) huấn luyện ứng sinh trở nên nhà truyền giáo nhiệt thành

Phải bảo đảm cho mỗi ứng sinh được chuẩn bị thích hợp cho việc dấn thân với tư cách là giáo dân, thông qua các giai đoạn tiệm tiến vốn là các đặc điểm của họat động truyền giáo: hiện diện tích cực trong xã hội bằng chứng tá đời sống, loan báo cách thẳng thắn sự thật về Đức Kitô, gặp gỡ tín đồ các tôn giáo khác để đối thọai cởi mở, chuẩn bị cho người dự tòng đến với mầu nhiệm Cứu độ, xây dựng cộng đoàn bằng cách chuẩn bị cho các đối tượng gia nhập Giáo Hội. Việc huấn luyện này phải làm cho ứng sinh nhạy bén về truyền giáo, giúp họ khám phá mọi hoàn cảnh thuận lợi để loan báo Tin Mừng và dấn thân vào đó.

h) huấn luyện ứng sinh có ý thức về Giáo Hội

Phải giúp ứng sinh xác tín rằng: họat động tông đồ không phải là hành vi cá nhân và đơn độc, vàhọat động này được hoàn tất trong sự hiệp thông của Giáo Hội, khởi từ giáo hột địa phương với Giám mục của mình. Họ cần ý thức rằng vai trò của giáo lý viên thực sự thuộc về Hội Thánh, do đó mang tính cộng đoàn, hành động của họ nối kết với hành động của Giáo Hội toàn cầu, trên bình diện thể chế và ân sủng. Vì thế họ phải sẵn sàng vâng phục các vị mục tử trong tinh thần đức tin, với tư cách là thừa tác vụ giáo lý viên.

Ý thức cộng đoàn này cần khơi dậy nơi ứng sinh thái độ cộng tác: biết lưu tâm đến các thành viên trong cộng đoàn mình đang phục vụ và cộng tác với họ, biết chịu lao nhọc khi làm việc tông đồ chung với nhau và chấp nhận những bất toàn của các thành viên trong Giáo Hội.

3/ Việc huấn luyện phải được tổ chức chu đáo

Huấn luyện viên

Cần phải cung ứng các phương thế cần thiết cho việc huấn luyện giáo lý viên. Nhưng vấn đề then chốt trong việc này là làm sao cho có đủ những huấn luyện viên thuần thục. Những huấn luyện viên này đóng vai trò quan trọng và cống hiến phần đóng góp vô cùng quý báu cho Giáo Hội.

Nhưng trước tiên, các ứng viên phải xác tín vị Huấn Luyện Viên đầu tiên và đích thực của họ không ai khác hơn là chính Đức Kitô, Vị Tôn Sư Duy Nhất, Đấng huấn luyện họ qua Chúa Thánh Thần (Ga 16, 12-15). Điều này đòi hỏi các ứng sinh phải có tinh thần đức tin, biết cầu nguyện và lắng nghe để Chúa có thể dạy bảo họ. Huấn luyện tông đồ chính yếu là một nghệ thuật được thể hiện trên bình diện siêu nhiên. Và các ứng viên phải chịu trách nhiệm trước hết về sự tăng trưởng nội tâm của bản thân mình, nghĩa là về cách mình đáp trả lời mời gọi của Chúa.

Kế đến là các vị mục tử với tư cách là các nhà giáo dục các giáo lý viên. Đức Giám mục và cha xứ, xét theo vai trò, là những huấn luyện viên đầu tiên của ứng viên. Rồi đến các nhà giáo dục, hay huấn luyện viên, tức là những vị được Đấng bản quyền giao phó trách nhiệm thực hiện chương trình huấn luyện này. Trước hết, đó là các vị đặc trách các Trường hay Trung tâm huấn luyện giáo lý viên, sau nữa là những vị đảm trách huấn luyện căn bản và huấn luyện thường xuyên. Các vị này phải có đủ khả năng, có nhiều phẩm tính thiêng liêng, luân lý và sư phạm, được chuẩn bị thích đáng cho nhiệm vụ, có kinh nghiệm cá nhân từng giảng dạy giáo lý, đặc biệt phải có đời sống đạo sâu sắc, để có thể giảng dạy trước nhất qua chứng từ của mình, phải sống gần gũi với ứng viên, để thông truyền cho họ lòng đạo đức và nhiệt thành. Ước gì mỗi giáo phận cố hết sức để có được một Ban huấn luyện gồm các linh mục, tu sĩ và giáo dân, là những người có thể được sai đến các giáo xứ để chuẩn bị ứng sinh ngay trong cộng đoàn và chuẩn bị từng người một.

Huấn luyện căn bản

Phải tuyệt đối lo cho mọi giáo lý viên tối thiểu có được sự giáo dục sơ khởi, nếu không, giáo lý viên không thể đáp ứng đầy đủ sứ vụ của mình. Do đó, cần phải có một số nguyên tắc và chỉ dẫn chi phối các lựa chọn trong việc huấn luyện:

Phải có kiến thức cơ bản thuộc môi trường văn hóa của mình, nhờ đó việc đào luyện nhân cách mới có cơ thực hiện.

Quan tâm đến thực tại xã hội và Giáo Hội: việc huấn luyện các ứng sinh gắn liền với thực tại họ sống và làm việc, cho nên sự quan tâm đến tình hình Giáo Hội và xã hội sẽ cung cấp nhiều điểm quy chiếu cụ thể, và đảm bảo cho việc huấn luyện ở trình độ cao.

Huấn luyện liên tục và tiệm tiến: nhờ đó ứng sinh từng bước đạt đến các mục tiêu huấn luyện. Chúng ta không đòi hỏi ứng sinh phải toàn hảo ngay từ đầu, nhưng cần giúp họ tiến bộ liên tục và quân bình.

Một phương pháp có quy củ và đầy đủ quan tâm đến lãnh vực truyền giáo và các nguyên tắc của khoa sư phạm hoàn hảo, như thế phương pháp huấn luyện phải:

  • thực nghiệm: có nhiều sự đối chất được xếp đặt và hướng dẫn đối với tình hình Giáo Hội, văn hóa và xã hội của môi trường.
  • toàn vẹn: nhắm đến sự tăng trưởng con người về mọi khía cạnh và mọi giá trị của họ;
  • trọng tự do: bảo đảm cho ứng sinh được tự do trong bất cứ điều kiện ý thức hoặc vô thức nào.
  • hài hòa: hướng đến cái cốt yếu và dẫn đến sự hiệp nhất nọi tâm.

* Dự phóng đời sống: khoa sư phạm kiến hiệu giúp cá nhân xây dựng cho mình một dự phóng đời sống vốn ấn định các mục tiêu và phương tiện để đạt đến các mục tiêu ấy. Ngay từ đầu mỗi ứng sinh sẽ được huấn luyện để thiết lập cho mình một chương trình qui củ, trong đó họ chăm lo trước tiên đến căn tính và lối sống, rồi đến các phẩm tính cần thiết cho họat động tông đồ.

* Đối thọai để huấn luyện: tạo điều kiện đối thọai giữa ứng sinh và huấn luyện viên để họ được soi sáng, khuyến khích và đồng hành với những tiến bộ trong huấn luyện. Trong việc đối thọai này, việc linh hướng chiếm một vị trí đặc biệt.

* Trong cộng đoàn: Ứng sinh có thể dần dần khám phá ra nơi cộng đoàn cách thức thể hiện chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Không có sự huấn luyện tông đồ đích thực nào được thực hiện ngoài cộng đoàn cả.

Huấn luyện thường xuyên

Sự tiến triển của con người, sự tăng trưởng trong đời sống kitô hữu, sự canh tân văn hóa và sự tiền triển xã hội đòi hỏi giáo lý viên phải được huấn luyện luôn trong suốt thời kỳ họat động tích cực. Bổn phận này cũng liên quan đến các vị lãnh đạo về huấn giáo, đến các giáo lý viên thường, và bao hàm mọi chiều kích huấn luyện như nhân bản, thiêng liêng, giáo lý, và tông đồ. Mục tiêu là tạo được một tổ chức đầy đủ và thúc đẩy những sáng kiến cụ thể, để bất kỳ một giáo lý viên nào cũng được chăm sóc trong việc tăng trưởng liên tục.

Trong số các sáng kiến về việc huấn luyện thường xuyên, hàng đầu là các sáng kiến do các Trung tâm thực hiện, để tiếp tục chăm sóc các cựu học viên, ít là trong những thời kỳ đầu, qua thư luân lưu và thư riêng, qua việc gửi tài liệu, thăm viếng tại chỗ với tư cách huấn luyện viên, những cuộc gặp gỡ để kiểm điểm ngay trong các Trung tâm. Những Trung tâm này cũng thích hợp cho việc tổ chức những khóa canh tân và tu nghiệp cho các giáo lý viên vào bất cứ lúc nào.

Nơi nào chưa có Trường hay Trung tâm, nên tìm các cách khác để thực hiện chương trình huấn luyện thường xuyên, gồm những khóa ngắn hạn hoặc các cuộc gặp gỡ, hội thảo. Cần tổ chức những chương trình tu nghiệp liên quan đến các khía cạnh khác nhau của nhân cách giáo lý viên. Tu nghiệp về chuyên môn chưa đủ.,., còn cần ưu tiên cho việc bồi dưỡng căn tính giáo lý viên.

Sau cùng, ngoài các sáng kiến có tổ chức, việc huấn luyện thường xuyên nằm trong tầm tay của chính các đương sự. Bởi vậy mỗi giáo lý viên phải để tâm thăng tiến không ngừng và ra sức tìm tòi nghiên cứu với xác tín rằng không ai có thể thay thế mình trong trách nhiệm đầu tiên này.

Phương tiện và cơ cấu huấn luyện

Trong số các phương tiện huấn luyện, nổi bật là các Trường hay Trung tâm dành cho giáo lý viên. Các văn kiện của Giáo Hội như Sắc lệnh Ad Gentes hay Thông điệp Redemptoris Missio đều nhấn mạnh đến tầm quan trọng của việc thành lập và củng cố các Trường hoặc các Trung tâm này. Ước gì mọi Giáo phận ở Việt Nam cũng đều có mỗi nơi ít nhất một cơ sở như thế.

Khi nói đến các Trung tâm huấn giáo, người ta có thể nghĩ đến những thực tại rất khác nhau: từ những cơ ngơi đồ sộ, có khả năng đón nhận những ứng sinh lâu dài với chương trình họat động được tổ chức chu đáo, cho đến các cơ sở dành cho các nhóm nhỏ, hoặc những khóa ngắn hạn trong giáo phận hay giáo xứ, hoặc chỉ là cuộc gặp gỡ trong một ngày, tùy theo hòan cảnh mỗi nơi mỗi lúc. Tuy nhiên, cần có sự liên kết giữa các Trường hay Trung tâm, hay những hình thức tổ chức tương tự, nhất là trên bình diện quốc gia, do Hội đồng Giám mục đảm trách. Sự liên kết này nên được cổ võ bằng những cuộc gặp gỡ đều đặn giữa tất cả những huấn luyện viên thuộc các nơi, các cấp khác nhau, và bằng việc trao đổi tài liệu giảng dạy. Nhờ đó, chúng ta tiến đến chỗ thống nhất chương trình huấn luyện, và mỗi nơi được củng cố nhờ sự phong phú phát sinh từ kinh nghiệm của những nơi khác.

Ngoài các Trường và Trung tâm nói trên, cũng nên kể đến các giảng khóa và những cuộc hội thảo hay gặp gỡ dành cho các thành viên ban giảng huấn hay các giáo lý viên mà các giáo phận, các hạt hay các giáo xứ tổ chức. Đó là những phương thế huấn luyện rất có giá trị. Trong ít nhiều nơi hay hoàn cảnh, chúng trở thành cách huấn luyện duy nhất. Các giảng khóa này chẳng những không đối nghịch với các chương trình huấn luyện tại các Trung tâm, mà lại còn giúp nối dài ảnh hưởng hoặc bổ túc cho các chương trình ấy.

Ước mong mọi Giáo phận trước mắt có thể huấn luyện một số giáo lý viên hoặc ít là các cán bộ khung cho một Trường hay Trung tâm.

Cung ứng tài chánh cho công việc huấn giáo.

Như hầu hết mọi họat động khác của con người, việc huấn giáo cũng cần có tài chánh để giải quyết các vấn đề cơ sở và phương tiện vật chất cũng như ít nhiều yếu tố nhân sự cho việc huấn luyện đào tạo cũng như việc giảng dạy giáo lý.

1. Tài chánh cho việc huấn luyện :

Trước hết, phải nói đến việc xây dựng cơ sở, trang bị các phương tiện làm việc : thông tin liên lạc, dụng cụ thính thị, phương tiện tham khảo, in ấn, phổ biến tài liệu…nhất là cho các Trường hay Trung tâm, và việc điều hành, tổ chức các khóa huấn luyện, học hỏi hay hội thảo rất đa dạng… Tất cả đều đòi hỏi rất nhiều sức người sức của mà Hội Đồng Giám mục cũng như mỗi Giáo phận phải tài trợ hay tìm cách vận động các nguồn tài trợ khác nhau trong dân Chúa.

a. Thù lao cho giáo lý viên:

Về vấn đề này, như đã nói trong phần I của bài thuyết trình, chúng ta vui mừng biết rằng tuyệt đại đa số các giáo lý viên của chúng ta đều là tình nguyện và không nhận thù lao.

Tuy nhiên, không phải là không có những trường hợp vấn đề thù lao cần phải đặt ra. Vì có những nơi không thể tìm ra tu sĩ hay những giáo lý viên tình nguyện có sẵn nguồn thu nhập cố định, không cần lo việc mưu sinh mà vẫn có thể tự túc và dùng một phần hay tất cả thời gian để lo việc giảng dạy giáo lý. Trong trường hợp này Bộ Truyền giáo dạy rõ ràng: mong rằng việc trả công cho giáo lý viên được thực hiện như là sự công bằng, chứ không phải muốn trả thế nào cũng được. Các giáo lý viên làm trọn thời gian hay bán thời gian phải được trả công theo những nguyên tắc chính xác, do Giáo phận và do giáo xứ lập ra, lưu ý đến điều kiện tài chánh của giáo hội địa phương, đến hoàn cảnh cá nhân và gia đình của mỗi giáo lý viên nói ở đây trong bối cảnh kinh tế chung của đất nước. Phải đặc biệt quan tâm đến các giáo lý viên ốm đau, mất sức hay già yếu.

Tòa Thánh mong ước các tín hữu nhận bảo trợ cho các giáo lý viên (có nhu cầu), nhất là khi họ phục vụ cho chính khu vực mình. Tòa Thánh đặc biệt khuyến khích việc đóng góp tài chánh cho các Trường hay trung tâm huấn luyện giáo lý viên, vì điều này chắc chắn góp phần vào việc phát triển đời sống kitô hữu trong tương lai gần, vì huấn giáo tích cực và hữu hiệu là nền tảng của việc huấn luyện dân Chúa.

Và Thánh Bộ khuyên: Nơi đâu có thể thì gia tăng số giáo lý viên tự nguyện, nghĩa là dấn thân cộng tác một cách ổn định không cần nhận thù lao, vì đã có việc làm mưu sinh hay nguồn lợi cố định.

Đồng thời, Thánh Bộ khuyên cần phải giáo dục tín hữu coi ơn gọi giáo lý viên như một sứ vụ hơn là một việc làm để kiếm sống.

Quan trọng nhất là phải tìm ra một giải pháp tận căn, đặc biệt đối với việc quản trị khôn ngoan vốn tôn trọng các ưu tiên tông đồ và nhờ việc giáo dục cộng đoàn đóng góp cách nhưng không.

b. Trách nhiệm cổ võ và huận thuẫn của cộng đoàn dân Chúa

Trong cuộc trường chinh nhằm thu phục các môn đệ về cho Chúa, “các giáo lý viên là những tông đồ tiền phương, không có họ, các giáo hội hôm nay đang triển nở đã không được lập ra”, cho nên Bộ Truyền giáo mong ước vai trò các giáo lý viên ngày một được chú ý hơn trong cộng đoàn dân Chúa.

Cách đây hơn 10 năm, số giáo lý viên thuộc các miền truyền giáo trên thế giới xê dịch khỏang 250.000 đến 350.000 người (ghi nhận của Thánh Bộ vào năm 1993), và con số này vẫn ngày một tiếp tục gia tăng (thật đáng tiếc chúng tôi không có được con số giáo lý viên hiện thời tại Việt nam). Đương nhiên, tính chất của các cộng đoàn kitô hữu tương lai tùy thuộc vào sự dấn thân của lực lượng giáo lý viên này. Ngày nay, trong bối cảnh của nền thần học giáo dân, hẳn các giáo lý viên lại càng chiếm một vị trí quan trọng hơn nữa. Điều này cho thấy càng phải khẩn trương gia tăng số giáo lý viên bằng cách vận động cho ơn gọi này, và củng cố chất lượng bằng chương trình huấn luyện đầy đủ và liên tục. Chính vì thế, ta mới hiểu tại sao Đức Gioan-Phaolô II nhắn nhủ các vị Giám mục: “Vai trò chính của Chư Huynh là khơi dậy và gìn giữ trong Giáo phận của Chư Huynh một sự say mê dạy giáo lý, sự say mê được thể hiện trong một tổ chức thích hợp và hữu hiệu, vận dụng người, phương tiện, dụng cụ, và cả các tài nguyên cần thiết”.

Sau cùng, xin hãy lưu ý đến một số công việc hay lãnh vực mà Bộ Truyền Giáo nêu ra trong tài liệu đã dẫn nhiều lần ở đây:

  • * Gây ý thức cho cộng đoàn giáo phận và các cộng đoàn giáo xứ, đặc biệt là nơi các linh mục, về tầm quan trọng và vai trò của giáo lý viên.
  • * Thiết lập hoặc canh tân các chỉ thị về huấn giáo đối với việc tuyển chọn và huấn luyện giáo lý viên cho rõ ràng và thống nhất chiếu theo chỉ thị của Tòa Thánh.
  • * Bảo đảm trang bị tối thiểu cho việc chuẩn bị chuyên môn của các giáo lý viên cấp giáo phận và giáo xứ, để không một ai nhận công tác mà không được chuẩn bị.
  • * Đào tạo cán bộ khung cho mỗi giáo phận và giáo xứ… để họ có thể cộng tác với các mục tử trong việc huấn luyện và đồng hành với các giáo lý viên tự nguyện khác.
  • * Trợ cấp cho các nhu cầu liên quan đến việc huấn luyện, đến sinh họat và đời sống giáo lý viên, bằng một chương trình kinh tế cẩn trọng gồm cả cộng đoàn.
  • * Chăm sóc từ phía các linh mục: cần nhận ra, cổ võ và phối hợp những đoàn sủng khác nhau trong cộng đoàn, đặc biệt theo dõi các giáo lý viên và chia sẻ với họ các nỗi vất vả khi rao giảng Tin Mừng, nhìn nhận họ như những người đặc trách thực sự tác vụ được ủy thác.

Chính theo hương này mà Thánh Bộ khuyến cáo:

Phải giáo dục từ trong chủng viện, để hàng giáo sĩ biết nhìn nhận, giúp đỡ và đánh giá đúng mức giáo lý viên, như hình ảnh tuyệt vời của người tông đồ và như cộng tác viên đặc biệt của mình trong vườn nho của Chúa.

Thay lời kết luận

Chúng ta, Giáo hội Việt Nam, đang ở vào thời điểm 470 năm kể từ khi Tin Mừng được loan báo lần đầu tiên cho con cháu Lạc Hồng. Cũng bằng một thời gian như thế, nhiều dân tộc đã được Phúc Âm hóa gần như hòan toàn.

Đàng khác, hãy xem trường hợp một giáo hội cùng ở lục địa Á châu với chúng ta, cùng trong vòng ảnh hưởng của các tôn giáo lớn của Phương Đông như chúng ta, cũng từng trải qua một thời gian dài bị cấm cách và bách hại như chúng ta, đã bước vào thời kỳ công nghiệp hóa và hiện đại hóa trước chúng ta cả vài chục năm, lại đang bị thu hút vào hiện tượng toàn cầu hóa còn hơn chúng ta: Giáo Hội Hàn quốc! Thế mà Giáo Hội này lại đang có một nhịp độ phát triển mau lẹ đến lạ lùng: trong vòng có hơn hai thập niên trở lại đây, số tín hữu gia tăng gấp đôi, tức là 100%.

Những điều này không thể khiến chúng ta không suy nghĩ. Những sai lầm của Giáo hội trong quá khứ truyền giáo xa xưa cho dù thế nào đi nữa cũng có thể và phải được khắc phục với thời gian, nhất là nếu chúng ta có những nỗ lực thực sự.

Nỗ lực đó chính là quyết tâm thực hịên lệnh truyền ra khơi thả lưới của Đức Kitô, với điều kiện là phải có những ngư phủ lành nghề, nhiệt tình và trung kiên, những ngư phủ được rèn luyện kỹ càng trong lò của Thánh Thần, theo những dẫn dắt của Giáo Hội hậu công đồng. Có thể chúng ta phải tốn sức người sức của rất nhiều, nhưng nếu chúng ta quyết tâm thực hiện lệnh truyền đó thì nhất định sẽ có được những kỳ gặt hái bội thu. Nếu cần phải nói thêm thì chỉ xin hãy nhớ lời nói nóng bỏng này của Đức Giêsu: “Thầy đã đến ném lửa vào mặt đất, và Thầy những ước mong phải chi lửa ấy đã bùng lên !” (Lc 12, 49)

Những gì cần phải làm để cho ngọn lửa ấy được bùng lên, cho dù hoàn cảnh thế nào đi nữa, thực ra lúc nào cũng ở trong tầm tay của chúng ta, và luôn luôn là một thách thức thực sự cho chúng ta.

Vấn đề là chúng ta có muốn chiến thắng hay không.

Riêng về Đấng ra lệnh truyền thì Ngài đã đoan chắc chiến thắng cho chúng ta rồi: “Thầy đã thắng thế gian!”(Ga 16, 33).

Mùa Chay 2004
Antôn Uông Đại Bằng (Tọa Đàm Huế)

Antôn Đỗ Hữu Nghiêm tổng hợp sắp đặt